img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học| Văn 9 tập 1 Cánh diều

Tác giả Hoàng Uyên 15:38 05/08/2024 2,547 Tag Lớp 9

Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn các bạn cách để soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học cùng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Cánh diều 9 tập 1 để nắm rõ được nội dung và ý nghĩa của bài học, cùng theo dõi nhé!

Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học| Văn 9 tập 1 Cánh diều
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học

1. Phân tích đoạn thơ trích từ Truyện Kiều (Nguyễn Du)

Nguyễn Du là một đại thi hào của dân tộc và là một danh nhân lỗi lạc trong nền văn hóa thế giới, được biết đến nhiều với câu nói để đời: “con mắt nhìn thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời”. Ông đã sáng tác cho văn học rất nhiều tác phẩm bất hủ, nhưng nổi bật trong đó nhất vẫn là “Truyện Kiều”. Tác phẩm này đã đưa tên tuổi của Nguyễn Du trở thành một huyền thoại trong văn học Việt Nam, không chỉ bởi ở trong đó chứa đựng một cốt truyện hấp dẫn mà còn bởi ngôn ngữ tinh tế, hình ảnh phong phú và những biện pháp nghệ thuật đặc sắc. Trong “Truyện Kiều”, đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” là một trong những đoạn thơ nổi bật nhất và đậm chất nhất, diễn tả tinh tế và sâu sắc lên những nét tâm trạng của Thúy Kiều khi nàng bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích, một nơi hoàn toàn biệt lập và hoang vắng, tách biệt so với thế giới bên ngoài. Qua đoạn thơ này, người đọc có thể cảm nhận được nỗi cô đơn, buồn tủi và những lo lắng, sợ hãi của Thúy Kiều khi nghĩ về một tương lai bất định, không điểm đến của mình. Nguyễn Du đã khéo léo khi những hình ảnh thiên nhiên hoang vắng, lạnh lẽo để miêu tả nỗi lòng cô đơn của Thúy Kiều, tạo nên một bức tranh tâm trạng đầy cảm xúc và sâu sắc, làm rung động lòng người.

Đoạn trích “Kiều ở lầu Ngưng Bích” nằm trong phần hai của tác phẩm "Truyện Kiều" mang tên “Gia biến và lưu lạc”. Đây là khúc thơ tâm tình mang đầy nỗi xúc động, đau thương của Thúy Kiều khi lần đầu tiên nàng bước chân ra khỏi chốn “êm đềm trướng rủ màn che”. Với nghệ thuật tả cảnh ngụ tình, đoạn thơ chính là một bản đàn viết ra với nhiều cung bậc tâm trạng của nàng. Đó là nỗi cô đơn, buồn tủi và cũng là tấm lòng thủy chung, hiếu thảo mà nàng dành cho người yêu và cha mẹ. Nguyễn Du đã khéo léo dùng những cảnh vật xung quanh để phản ánh những cảm xúc sâu kín trong lòng Kiều, tạo nên một bức tranh tâm trạng vừa đẹp đẽ nhưng cũng lại vô cùng đau thương. Qua đoạn trích này, người đọc cảm nhận được nỗi lòng và nỗi đau đớn về số phận của Thúy Kiều trước những biến cố cuộc đời.

Nhà thơ đã miêu tả hình ảnh về một bức tranh tâm cảnh, tức là cảm xúc chủ đạo trong thơ. Tuy nhiên, lí trí của nhà thơ vẫn sáng suốt khi xây dựng một kết cấu trong bài thơ khá khoa học và chặt chẽ. Bài thơ được tác giả chia thành ba phần rõ ràng. Phần đầu tiên miêu tả quang cảnh ở lầu Ngưng Bích, nơi mà chứa đựng đầy cảm giác cô đơn và trống vắng. Phần thứ hai tập trung vào nỗi nhớ nhung, sự cô đơn và sầu tủi của nhân vật chính. Trong trạng thái đó, nàng nhớ về những người thân yêu, cụ thể là Kim Trọng và cha mẹ. Những kỷ niệm ngọt ngào và những tình cảm sâu đậm mà nàng dành cho Kim Trọng, cùng với lòng hiếu thảo và luôn lo lắng cho cha mẹ, càng làm cho nỗi buồn của nàng thêm phần sâu sắc. Cuối cùng, phần thứ ba là tâm trạng đau khổ và lo lắng khi nàng nghĩ đến tương lai mịt mờ phía trước của nàng. Nàng dự cảm về những tai ương và sóng gió sẽ ập đến trong cuộc đời mình, khiến tâm trạng nàng lại thêm phần đau đớn và bi quan. Tất cả những phần trên đều được kết nối với nhau một cách logic và mạch lạc, cho thấy sự tài tình của Nguyễn Du trong việc xây dựng một bức tranh cảm xúc phức tạp nhưng lại rất khoa học và chặt chẽ. Những cảm xúc trong thơ không chỉ được thể hiện qua ngôn từ mà còn qua cấu trúc viết thơ, từ đó tạo nên một tác phẩm vừa sâu lắng về mặt tình cảm nhưng cũng lại vừa tinh tế về mặt nghệ thuật.

Trong những vần thơ đầu tiên, quang cảnh được miêu tả mang đến cảm giác hoang vu, vắng lặng và buồn thảm. Đứng trên lầu cao, nàng nhìn ra xa thấy những dãy núi chập chùng, tạo nên cảm giác xa xôi, cách biệt. Khi nhìn lên bầu trời, nàng chỉ thấy vầng trăng cô đơn, lẻ loi giữa không gian mênh mông. Khung cảnh xung quanh nàng không gì khác ngoài những cồn cát bay mịt mù trong gió, tạo nên một bức tranh thiên nhiên vừa rộng lớn nhưng cũng vừa vô cùng lạnh lẽo. Tất cả những yếu tố này hòa quyện lại, kết hợp với nhau đã góp phần tô đậm thêm nỗi quạnh vắng và cô đơn đang xâm chiếm tâm hồn nàng. Bức tranh thiên nhiên không chỉ là miêu tả cảnh vật mà còn là biểu tượng cho tâm trạng của nàng: một tâm hồn đang chịu đựng nỗi buồn và sự cô đơn mà không một ai thấu hiểu.

Những hình ảnh này, từ dãy núi xa xa đến vầng trăng cô độc và cồn cát mịt mù, tất cả đều phản ánh một cách tinh tế nỗi lòng nàng, làm cho cảm giác buồn thảm trở nên sâu sắc hơn. Mỗi chi tiết trong khung cảnh đều góp phần thể hiện sự cô quạnh và nỗi đau tinh thần của nàng, khiến người đọc cảm nhận được sự trống trải và niềm đau của một tâm hồn lẻ loi trong thế giới rộng lớn. Thơ ca không chỉ là những câu từ, mà qua từng hình ảnh, từng chi tiết, tác giả đã truyền tải một cách mạnh mẽ và đầy cảm xúc những nỗi niềm sâu kín của nhân vật chính. Sự hoang vu, vắng lặng của thiên nhiên chính là tấm gương phản chiếu chân thực nhất cho tâm trạng của nàng, tạo nên một bức tranh thiên nhiên, tâm trạng đầy cảm xúc và sâu sắc.

Trước lầu Ngưng Bích khóa xuân
Vẻ non xa tấm trăng gần ở chung
Bốn bề bát ngát xa trông
Cát vàng cồn nọ, bụi hồng dặm kia

Cảnh vật buồn khiến cho lòng người càng thêm lẻ loi, hiu quạnh, hay chính là lòng người vốn đã nặng trĩu đầy những ưu tư nên nỗi sầu muộn như lan tỏa và thấm đẫm vào cảnh vật. Mỗi cảnh vật, từ bầu trời âm u, cây cối úa vàng, đến con đường vắng vẻ, đều phản chiếu những nỗi tâm tư trong lòng của con người. Cảnh và tình hòa quyện với nhau, tạo nên một bức tranh buồn đến nao lòng. Chính vì lòng người mang đầy những nỗi niềm nên mỗi hình ảnh của cảnh vật lại càng trở nên buồn bã hơn, khiến cho người ta càng có những cảm nhận sâu sắc hơn về sự cô đơn, buồn tẻ trong cuộc sống:

Bẽ bàng mây sớm đèn khuya,
Nửa tình nửa cảnh như chia tấm lòng.

Một từ láy "bẽ bàng" đã diễn tả thật chân xác nỗi lòng nàng Thúy Kiều. Từ này gói gọn nhiều cảm xúc phức tạp: buồn tủi, ngượng ngùng, ê chề, cay đắng và xót xa. Trong hoàn cảnh của nàng, "bẽ bàng" không chỉ là nỗi đau riêng tư của mình nàng nữa mà còn là sự xấu hổ trước xã hội và sự bất lực trước số phận. Và khi tâm trạng ấy đối diện với cảnh vật ngoài kia, lại càng làm cho cõi lòng nàng thêm đau thắt. Thiên nhiên khi đó không chỉ còn là những sự vật vô tri, vô giác nữa mà như trở thành có hồn. Nó chính là một tấm gương phản chiếu cho nỗi tâm trạng cô đơn, sầu tủi của nàng Kiều. Khi nàng nhìn ra khung cảnh xung quanh, mỗi chi tiết của thiên nhiên như mang theo một phần cảm xúc của nàng. Những dãy núi xa xa, dòng sông lặng lẽ, hay những cơn gió hiu hắt đều trở nên có hồn, thể hiện sự cô đơn và sầu muộn trong lòng nàng. Sự hòa quyện giữa tâm trạng con người và cảnh vật tạo nên một bức tranh thiên nhiên thấm đượm nỗi buồn, sâu lắng. Mỗi hình ảnh, mỗi màu sắc của thiên nhiên đều như muốn kể lại câu chuyện đau lòng của nàng Kiều. Cảnh và tình hòa quyện vào với nhau, tạo nên một không gian đậm chất bi kịch. Chính tâm trạng nàng đã thổi hồn vào cảnh vật, khiến mọi thứ xung quanh trở nên sống động và đầy cảm xúc. Cảnh vật như hòa vào đồng cảm và chia sẻ nỗi niềm với nàng, làm cho người đọc có những cảm nhận sâu sắc hơn về nỗi đau và sự cô đơn mà nàng đang phải chịu đựng. Tất cả những yếu tố này đã tạo nên một bức tranh cảm xúc đầy phong phú và sâu sắc trong lòng người đọc.

Từ trong nỗi cô đơn và phiền muộn, nàng hướng lòng mình về quê hương, gia đình và những người thân yêu. Nỗi nhớ đầu tiên, nàng dành cho Kim Trọng. Có lẽ bởi trước đó nàng đã bán mình chuộc cha để làm tròn chữ hiếu với cha mẹ, nên nàng phải trao lại chữ duyên với Kim Trọng cho em gái mình. Vì vậy, trong lòng nàng còn chứa đựng nhiều băn khoăn, day dứt khi để duyên ai phải lỡ làng. Sự hy sinh và nỗi đau này khiến nàng càng thêm đau khổ và nhớ nhung người mình yêu, tạo nên một tâm trạng vừa chân thật nhưng cũng vừa bi ai:

Tưởng người dưới nguyệt chén đồng.
Tin sương luống những rày trông mai chờ.
Bên trời góc bể bơ vơ,
Tấm son gột rửa bao giờ cho phai.

Nhịp thơ như là nhịp trái tim của một tình yêu đang thổn thức, rỉ máu. Nỗi nhớ ấy thật thiết tha, nồng cháy. Nỗi nhớ trào dâng khiến cho hình ảnh đêm thề nguyện, đính ước hiện ra một cách chân thật, sống động ở ngay trước mắt nàng. Đó chính là  hiệu quả của việc đã biết cách diễn đạt vượt trội của từ "tưởng" mà Nguyễn Du đã khéo léo sử dụng trong những vần thơ đầu tiên diễn tả nỗi nhớ da diết của Kiều. Mới hôm nào, lứa đôi còn đang cùng thề nguyện ước hẹn với nhau dưới ánh trăng, vầng trăng thì vẫn còn đó nhưng giờ đây đã đôi người đôi ngả.

Nàng tưởng tượng Kim Trọng vẫn ngày ngóng đêm trông tin tức về nàng trong đau khổ, tuyệt vọng. Nghĩ đến chàng, rồi lại nghĩ đến thân phận của mình, bơ vơ, lưu lạc ở một nơi chân trời góc bể, đất khách quê người, biết bao giờ tấm lòng son sắt, chung thủy của nàng dành cho Kim Trọng phai nhạt đi thì lúc ấy, có lẽ lòng nàng mới bớt đau khổ, dằn vặt. Những kỷ niệm ngọt ngào của những ngày xưa bên nhau cứ trào dâng trong tâm trí nàng, làm cho nỗi nhớ của nàng ngày càng thêm sâu nặng. Nàng nhớ về những câu ước hẹn dưới vầng trăng, những lời thề nguyện gần mãi bên nhau, nhưng giờ đây tất cả chỉ còn là quá khứ. Hình ảnh Kim Trọng ngày nhớ đêm mong ngóng chờ tin tức của nàng hiện lên rõ ràng trong đầu nàng, làm cho trái tim nàng càng thêm đau thắt. Nàng thấy rõ sự ở đó chứa đựng đau khổ và tuyệt vọng của chàng, và điều đó khiến nàng thêm phần đau đớn.

>> Xem thêm: Soạn văn 9 cánh diều 

Tâm trạng nàng cứ thế trôi theo dòng ký ức và trí tưởng tượng, cảm giác bơ vơ, lạc lõng ở nơi đất khách quê người làm cho lòng nàng thêm phần tủi thân. Tấm lòng son sắt và chung thủy của nàng dành cho Kim Trọng chưa từng phút nào phai nhạt, nhưng chính sự xa cách và những khó khăn mà nàng đang phải đối mặt làm cho nàng không khỏi đau khổ và cảm thấy dằn vặt. Trong những lúc ấy, nàng thường ngồi một mình trong căn phòng bé nhỏ, ánh mắt xa xăm nhìn ra cửa sổ, hướng ánh mắt ấy về phía có những cánh chim bay lượn như đang chở theo những nỗi niềm của nàng.

Mỗi khi hoàng hôn buông xuống, lòng nàng lại càng thêm nặng trĩu, nỗi nhớ quê hương, nhớ người yêu lại càng thêm da diết. Đôi khi nàng tự hỏi liệu chàng có nhớ đến nàng không, có nhớ đến những kỷ niệm mà hai người từng có với nhau không. Nàng cảm thấy như bản thân đang sống trong một thế giới hoàn toàn khác, nơi mà mọi thứ đều xa lạ và lạc lõng. Sự cô đơn ấy cứ thế gặm nhấm tâm hồn nàng từng ngày, khiến nàng cảm thấy mình như một chiếc lá rơi, bị cuốn theo dòng đời mà không biết mình sẽ trôi về đâu. Nàng chỉ mong rằng, một ngày nào đó, mọi đau khổ sẽ qua đi và nàng có thể tìm lại được niềm vui, hạnh phúc đã từng có bên. Nhưng nàng biết rằng, điều đó không dễ dàng, bởi lẽ những vết thương lòng khó mà lành lại, và những ký ức đẹp đẽ kia sẽ có thể chỉ mãi mãi ở lại trong trái tim nàng.

Xót người tựa cửa hôm mai
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm

Sau nỗi nhớ người yêu đến quặn thắt, lòng nàng càng đau xót hơn khi nghĩ về cha mẹ. Không xót xa sao nổi khi nghĩ đến cảnh cha mẹ già ngóng trông tin con mòn mỏi từng ngày. Rồi khi trời oi nóng, biết ai quạt mát cho cha mẹ yên giấc, khi trời giá lạnh, biết ai đem chăn ấm tới cho cha mẹ nằm. Từng đêm, nàng vẫn thường thức trắng, tưởng tượng cảnh cha mẹ già yếu ngóng trông, lòng nàng càng thêm đau đớn và day dứt. Trong những giấc mơ chập chờn, hình ảnh cha mẹ già nua vẫn luôn hiện hữu, tất cả như muốn nói với nàng rằng hãy cố gắng vượt qua khó khăn để trở về. Những lúc buồn bã và cô đơn, nàng thường lấy lá thư cũ của cha mẹ ra đọc, để tìm chút an ủi và động lực tiếp tục sống ở nơi đất khách. Nàng hy vọng rằng, một ngày nào đó, sẽ được trở về và có thể báo hiếu chăm sóc và yêu thương cha mẹ như nàng đã từng mong muốn. 

Duy nhất khóa học DUO tại VUIHOC dành riêng cho cấp THCS, các em sẽ được học tập cùng các thầy cô đến từ top 5 trường chuyên toàn quốc. Nhanh tay đăng ký thôi !!!!

Nỗi nhớ đầy vơi nàng để cho những người thân yêu nhất, rồi nàng lại quay về với cảnh ngộ của hiện tại. Mỗi cảnh vật đang hiện hữu trước mắt đều như khơi lên trong lòng nàng một nỗi buồn sâu sắc. Nỗi buồn ấy càng lúc càng nhấn chìm nàng xuống đáy sâu của sự đau khổ. Nhớ đến cha mẹ, lòng nàng như bị xé rách bởi nỗi đau của sự xa cách. Nhìn cảnh vật xung quanh, từng cánh hoa, ngọn cỏ, tất cả đều gợi nhớ về quá khứ làm nàng không khỏi xót xa. Nỗi nhớ người yêu cùng những kỷ niệm đã qua càng khiến nàng thêm sầu muộn. Mỗi lần nghĩ đến những khó khăn và thử thách đang chờ đợi, nàng cảm thấy mình như bị nhấn chìm sâu hơn vào vực thẳm đau khổ không tìm thấy lối thoát. Nàng biết kí ức không dễ dàng quên đi được, bởi tình yêu và nỗi nhớ vẫn mãi đong đầy, không bao giờ phai nhạt trong tim.

Buồn trông cửa bể chiều hôm,
Thuyền ai thấp thoáng cánh buồm xa xa?
Buồn trông ngọn nước mới sa
Hoa trôi man mác biết là về đâu?
Buồn trông nội cỏ rầu rầu,
Chân mây mặt đất một màu xanh xanh.
Buồn trông gió cuốn mặt duềnh,
Ầm ầm tiếng sóng kêu quanh ghế ngồi.

Bằng cách sử dụng lối điệp ngữ liên hoàn "Buồn trông", khổ thơ cuối như một bức tranh buồn hoang vắng, cô liêu như ban đầu mà nó như tiềm ẩn dự cảm đầy sợ hãi về một tương lai mịt mù, sóng gió, tai họa. Hướng mắt ra xa khơi, tới cửa biển lúc hoàng hôn, có cánh buồm của hình bóng ai đó nhưng chỉ "thấp thoáng" mờ mịt, xa xôi. Cánh buồm ẩn hiện trong bóng chiều giữa mịt mù khói sóng chiều hôm như là hình ảnh con người cô đơn giữa biển đời, gập ghềnh, nhiều sóng gió, ba đào.

Cùng với nỗi buồn ấy, nàng hướng nhìn tới ngọn nước mới "sa", mới đổ xuống, một cánh hoa rụng, mỏng manh, yếu đuối bị làn sóng đưa đẩy dồn dập, không biết sẽ rồi bản thân sẽ trôi dạt về phương nào. Hình ảnh cánh hoa rụng, trôi dạt theo dòng nước dữ dội hay là hình ảnh người con gái bị cuộc đời đánh ngã khi còn quá trẻ. Rồi nội cỏ cũng nhuốm màu xanh "rầu rầu" ảm đạm, u buồn, héo hắt trải dài ra mênh mông, rợn ngợp đến hòa sắc xanh ấy vào sắc của mây trời. Những cơn gió thủy triều trào lên mặt biển, tiếng sóng vỗ từ xa bỗng vang dội lên ầm ầm như ập đến "kêu quanh ghế ngồi". Tiếng sóng gầm lên "ầm ầm" như muốn nhấn chìm con thuyền lẻ loi, nuốt chửng cánh hoa mỏng manh, bé nhỏ, muốn vùi dập nàng xuống tận đáy sâu của đau khổ, tuyệt vọng.

Trong khoảnh khắc đó, nàng cảm thấy mọi thứ xung quanh mình đều trở nên xa lạ và đáng sợ. Sự cô đơn, lạc lõng giữa cảnh vật rộng lớn khiến nàng không khỏi bàng hoàng, lo sợ. Bóng tối của buổi chiều tà dần bao phủ, như ám chỉ một tương lai mờ mịt đang chờ đợi nàng phía trước. Nỗi lo sợ về những điều chưa biết, những khó khăn và thử thách đang chực chờ, làm tâm hồn nàng thêm phần xáo trộn và bất an. Mỗi tiếng sóng vỗ, mỗi ngọn gió thổi qua đều như muốn cuốn trôi đi những hy vọng mong manh còn sót lại trong lòng nàng. Những hình ảnh buồn bã và u ám ấy không chỉ phản ánh cảnh vật xung quanh mà còn là tâm trạng rối bời, lo lắng của nàng dự cảm về tương lai. Dù đau khổ, tuyệt vọng, nàng vẫn phải đối mặt với thực tại và tìm cách vượt qua. Và dù có bị nhấn chìm hay cuốn trôi, nàng vẫn mong tìm thấy một nơi nào đó để bám víu, để hy vọng, để sống tiếp. Trong đáy sâu của tuyệt vọng, nàng vẫn hy vọng sẽ tìm thấy cho mình ánh sáng của niềm tin và sự kiên cường để vượt qua tất cả.

Mỗi vần thơ là một giọt cảm xúc nhà thơ nhỏ xuống để cảm thương cho số phận người con gái tài hoa nhưng lại bạc mệnh Thúy Kiều. Cùng với đó, là tài năng khi sử dụng các nghệ thuật trong ngôn ngữ: tả cảnh ngụ tình kết hợp với nghệ thuật điệp ngữ đầu mỗi câu lục và nghệ thuật ước lệ tượng trưng cùng với việc sử dụng nhiều từ láy tượng hình, tượng thanh (thấp thoáng, xa xa, man mác, rầu rầu, ầm ầm). Nguyễn Du đã khắc họa rõ cảm giác u uất, nặng nề, bế tắc, buồn lo về thân phận của Thúy Kiều khi ở lầu Ngưng Bích. Nguyễn Du không chỉ miêu tả cảnh vật mà còn kết hợp vào đó tâm trạng và cảm xúc của Thúy Kiều.

Những hình ảnh thiên nhiên hiện ra như cánh buồm thấp thoáng, ngọn nước sa, cánh hoa rụng và nội cỏ rầu rầu đều mang đậm nỗi buồn man mác, chứa đầy nỗi u uất. Tiếng sóng ầm ầm như tiếng lòng Thúy Kiều vang lên da diết trong sự cô đơn và tuyệt vọng. Sự lặp lại của các từ láy càng làm tăng thêm cảm giác buồn bã và lạc lõng của nàng. Tài năng của Nguyễn Du không chỉ nằm ở cách tả cảnh mà còn đặc biệt hơn ở chỗ ông đã dùng cảnh để tả tình, dùng thiên nhiên để nói lên những uẩn khúc trong tâm hồn Thúy Kiều. Những nỗi buồn, lo lắng và bế tắc của nàng như được hiện lên rõ nét qua từng câu thơ, khiến người đọc không khỏi cảm thương và xót xa cho số phận của nàng. Qua đó, Nguyễn Du đã làm nổi bật số phận bi kịch và nỗi đau đớn của người con gái tài hoa nhưng bạc mệnh, sống trong cảnh đời đầy sóng gió, bất hạnh và thử thách.

Có lẽ người đọc sẽ còn khắc ghi mãi trong mình những ấn tượng đặc biệt về bức tranh ngoại cảnh đồng điệu cùng bức tranh tâm cảnh. Tất cả được vẽ lên bởi một tài năng, một tấm lòng nhân văn cao đẹp của Nguyễn Du. Vì thế, đoạn trích trên đã góp phần vô cùng lớn để làm nên sức sống bất tử của kiệt tác “Truyện Kiều”.

2. Phân tích đoạn thơ trích từ Truyện Lục Vân Tiên  của nhà văn học Nguyễn Đình Chiểu

Trong lịch sử văn học của Việt Nam, nếu tác phẩm Truyện Kiều của Nguyễn Du được coi là đỉnh cao, là một kiệt tác trong thể loại truyện thơ Nôm, thì Lục Vân Tiên của Nguyễn Đình Chiểu lại được là một ngôi sao sáng, mang trong mình những giá trị nhân văn, đưa con người đến với ý nghĩa của chữ “Thiện”, dựa trên cách sắp xếp cốt truyện mang tính kinh điển, nổi bật trong văn học dân gian Á Đông. Nhân vật chính không chỉ hội tụ tài năng, đầy đủ phẩm chất tốt, mà còn vượt qua khó khăn nhờ nỗ lực bản thân và sự giúp đỡ từ những nhân vật phụ, cuối cùng là một kết thúc có hậu cho nhân vật chính và sự trừng phạt cho kẻ ác. Từ đó rút ra một bài học vô cùng sâu sắc về cuộc sống, cách mà con người nên đối mặt và đồng cảm với nhau, cùng nhau sẻ chia và sự không thay đổi của chân lý, ở hiền gặp lành.

Tác giả Nguyễn Đình Chiểu trải qua cuộc đời đầy bi ai, bị mù khi còn trẻ đến mất mát và bội ước trong tình riêng. Cuộc đời của ông gắn liền với những thăng trầm trong quá trình xây dựng của đất nước. Tuy vậy nhưng ông không đầu hàng số phận, mà đổi lại, ông còn thể hiện nghị lực phi thường, tham gia hoạt động cứu người, giáo dục, và sáng tác văn học, để lại những tác phẩm có giá trị mãi mãi. Sự nghiệp sáng tác trong văn học của ông chia thành hai giai đoạn: trước năm 1958 với chủ đề viết về đạo đức, và sau năm 1858 với chủ đề viết về lòng yêu nước.

Lục Vân Tiên là tác phẩm được sáng tác vào đầu những năm 50 thế kỷ XIX, là kiệt tác trong văn hóa thơ Nôm. Tác phẩm nói về cuộc đấu tranh giữa hai thế lực thiện và ác, vạch trần những kẻ bất nhân, bất nghĩa trong xã hội. Nó ca ngợi những phẩm chất đẹp đẽ của con người, tình nghĩa và lòng chung thủy, đồng thời lên án những kẻ xấu xa trong xã hội. Về mặt nghệ thuật, Lục Vân Tiên tập trung vào cuộc đấu tranh giữa hai vế nhân vật, mang đậm màu sắc Nam Bộ và đặc trưng về ngôn ngữ.

Trong đoạn trích đánh cướp Phong Lai, Lục Vân Tiên là một người có tinh thần trượng nghĩa, quả cảm. Việc đánh lũ cướp không làm anh ta băn khoăn, vì anh ta coi đó là lẽ tự nhiên. Trong trận đánh không cân sức, Lục Vân Tiên, một mình, với gươm giáo làm từ thân cây, đã tô đậm sự dũng cảm và tài năng thiên phú của anh ta.

“Vân Tiên tả đột hữu xông
Khác nào Triệu Tử phá vòng đương giang
Lâu la bốn phía vỡ tan
Đều quăng gươm giáo tìm đàng chạy ngay
Phong Lai trở chẳng kịp tay
Bị Tiên một gậy thác rày thân vong”

Tuy nhiên, với tài năng ứng biến của mình, Lục Vân Tiên vẫn mạnh mẽ sẵn sàng đối mặt với đám cướp. Việc sử dụng từ ngữ Hán việt, nhịp điệu nhanh làm nổi bật lên sức mạnh to lớn cho trận đánh. 'Tả đột hữu xông' là cụm từ tạo hình, thể hiện Lục Vân Tiên sự tỏa sáng giữa đám cướp. Nguyễn Đình Chiểu còn tạo lên một chiến thắng vô cùng tuyệt vời cho chàng, khiến những kẻ ác phải hoảng sợ, chạy trốn, và tên Phong Lai bị đánh bại trong một thời gian ngắn. Thắng lợi này là minh chứng cho một sức mạnh phi thường, sự quả cảm, kiên cường của người anh hùng.

Sau trận đánh, Lục Vân Tiên ân cần hỏi thăm Kiều Nguyệt Nga, thể hiện sự nhân hậu và lịch sự của người anh hùng. Câu hỏi ân cần, nhẹ nhàng “Ai than khóc ở trong xe nầy?' làm nổi bật lên một tâm hồn nhân hậu của Lục Vân Tiên. Chàng ta khiêm tốn khi nói về chiến công hiển hách của mình, thể hiện sự khiêm nhường và sẵn lòng đặt lợi ích của người khác trên lợi ích của bản thân. Người anh hùng ấy còn thể hiện lòng cảm thông, thương xót đối với những người gặp khó khăn, hoạn nạn. Cách xưng hô 'nàng - ta' thể hiện sự trân trọng và lịch sự của một con người có giáo dục.

Trong 6 câu thơ cuối, Lục Vân Tiên còn lại thể hiện ra một lòng hào hiệp trượng nghĩa, sẵn sàng vì dân trừ hại.

“Vân Tiên nghe nói liền cười
Làm ơn há dễ trông người trả ơn
Nay đà rõ đặng nguồn cơn
Nào ai tính thiệt so hơn làm gì
Nhớ câu kiến nghĩa bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng”

Tính cách của Lục Vân Tiên thể hiện qua nụ cười hạnh phúc, tự do, không màng đến sự đền ơn. Chàng ta là hình tượng anh hùng vĩ đại với tư duy và sức mạnh, hành động trượng nghĩa, một lý tưởng của một văn võ song toàn, đại diện cho người quân tử trong xã hội cũ.

Kiều Nguyệt Nga, hình ảnh của người phụ nữ truyền thống, được mô tả bởi sự gia giáo, thông minh và lòng nhân hậu. Với tâm hồn trân trọng truyền thống, Kiều Nguyệt Nga ghi nhớ công ơn, sẵn lòng đền đáp, thể hiện lòng biết ơn sâu sắc và sự thấu hiểu lễ nghĩa. Nàng là kết tinh của vẻ đẹp phụ nữ truyền thống, thấu tình đạt lý.

Kiều Nguyệt Nga ấn tượng với lòng thủy chung. Dù nhận thức rõ ràng về lễ giáo nam nữ, nàng vẫn sẵn sàng đền đáp Lục Vân Tiên. Nàng biết trân trọng tình nghĩa và cho rằng không có thứ gì có thể sánh với công ơn của Lục Vân Tiên. 

Trích đoạn Lục Vân Tiên cứu Kiều Nguyệt Nga là minh chứng cho một vẻ đẹp về tình yêu lý tưởng của một người anh hùng và một người phụ nữ truyền thống. Thể hiện sự toàn vẹn về văn võ, hiểu biết lễ nghĩa, đức tính khiêm nhường của Lục Vân Tiên. Đồng thời, Kiều Nguyệt Nga là biểu tượng cho vẻ đẹp của người phụ nữ truyền thống.

 

HỌC ONLINE CÙNG GIÁO VIÊN TOP 5 TRƯỜNG ĐIỂM QUỐC GIA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học cá nhân hóa, giúp con tăng 3 - 6 điểm chỉ sau 1 khóa học

⭐ Học chắc - ôn kỹ, tăng khả năng đỗ vào các trường chuyên cấp 2, cấp 3 

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo mong muốn và thời gian biểu cá nhân 

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô, hỗ trợ con 24/7  

⭐ Học lý thuyết đi đôi với thực hành, kết hợp chơi và học giúp con học hiệu quả 

⭐ Công nghệ AI cảnh báo học tập tân tiến, giúp con tập trung học tập

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập được biên soạn bởi các thầy cô TOP 5 trường điểm quốc gia

Trải nghiệm khóa học DUO hoàn toàn miễn phí ngay!!
 

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài Soạn bài Phân tích một đoạn trích tác phẩm văn học trong sách giáo khoa Cánh diều 9 tập 1. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 9
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}

VNESCHOOL là nền tảng cung cấp các khoá học online, chất lượng cao cho học sinh tiểu học và THCS. Chúng tôi cam kết mang tới cho học sinh trải nghiệm học đầy hào hứng và hiệu quả, giúp học sinh hiểu sâu, nắm chắc chương trình học trên lớp và đạt điểm cao trong các kì thi. Đồng thời chúng tôi cung cấp công cụ báo cáo cá nhân hoá nhằm hỗ trợ phụ huynh theo dõi sát sao và hiểu được năng lực của con trong quá trình học tập.


Địa chỉ: Tầng 1, Toà nhà Rivera Park , số 69 Vũ Trọng Phụng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Hotline: 0914890900