img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học| Văn 9 tập 1 Chân trời sáng tạo

Tác giả Hoàng Uyên 09:51 05/08/2024 11,562 Tag Lớp 9

Trong bài viết này, VUIHOC sẽ hướng dẫn các bạn cách để soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học cùng trả lời các câu hỏi trong sách giáo khoa Chân trời sáng tạo 9 tập 1 để nắm rõ được nội dung và ý nghĩa của bài học, cùng theo dõi nhé!

Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học| Văn 9 tập 1 Chân trời sáng tạo
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học: Phân tích kiểu văn bản

Yêu cầu đối với kiểu văn bản:

- Về nội dung: phân tích được về nội dung chính của chủ đề, nêu và phân tích được các tác dụng về những nét đặc sắc trong hình thức nghệ thuật đối với việc thể hiện được nội dung.

- Về hình thức: lập luận một cách chặt chẽ, có bằng chứng đáng tin cậy từ tác phẩm, diễn đạt một cách mạch lạc, sử dụng các phương tiện liên kết thật hợp lý để giúp cho người đọc nhận ra mạch lập luận chính của văn bản.

- Bố cục bài viết cần phải đảm bảo:

+ Mở bài: giới thiệu khái quát về tác phẩm văn học được đề cập (tên tác phẩm, tác giả), nêu lên được ý kiến khái quát về chủ đề và những nét đặc sắc trong hình thức nghệ thuật của tác phẩm đó.

+ Thân bài: lần lượt trình bày lên các luận điểm làm nổi bật được chủ đề và những nét đặc sắc về những hình thức nghệ thuật ở trong tác phẩm và tác dụng của nó đối với việc thể hiện nên được nội dung tác phẩm.

+ Kết bài: khẳng định lại lần nữa ý kiến về chủ đề và những nét đặc sắc trong hình thức nghệ thuật của tác phẩm đó; nêu lên suy nghĩ, cảm xúc, trải nghiệm cá nhân hoặc bài học rút ra được từ tác phẩm.

1.1 Câu 1 trang 49 SGK Văn 9/1 Chân trời sáng tạo 

Em có nhận xét gì về cách sắp xếp những luận điểm có trong bài viết?

Lời giải chi tiết:

Cách sắp xếp luận điểm ở trong bài viết đều nhằm mục đích làm nổi bật chủ đề.

- Luận điểm 1 làm rõ được từng khía cạnh của chủ đề.

- Luận điểm 2 nêu những nét đặc sắc về hình thức nghệ thuật ở trong tác phẩm và tác dụng của nó ở trong việc thể hiện lên nội dung tác phẩm.

1.2 Câu 2 trang 49 SGK Văn 9/1 Chân trời sáng tạo

Bài viết đã phân tích được những phương diện nội dung nào của chủ đề trong truyện Bồng chanh đỏ?  Từ đó, em đã rút ra những kinh nghiệm gì khi phân tích được nội dung chủ đề của một tác phẩm văn học?

Lời giải chi tiết:

Bài viết đã tập trung phân tích hai khía cạnh của chủ đề truyện liên quan đến cách con người đối xử với thiên nhiên. Thứ nhất, khía cạnh về việc săn bắt chim bồng chanh, một hành động trực tiếp phản ánh sự tương tác giữa con người và môi trường sống của các loài chim. Thứ hai, khía cạnh về cách nhân vật Hoài thay đổi nhận thức và cách ứng xử với thiên nhiên, từ đó nhấn mạnh tầm quan trọng của sự tôn trọng và bảo vệ môi trường tự nhiên. Qua đó, bài viết cho thấy rằng khi phân tích một tác phẩm, điều quan trọng là phải xác định rõ chủ đề chính và cách mà chủ đề này được thể hiện, làm nổi bật qua từng chi tiết và diễn biến trong tác phẩm. Điều này giúp người đọc có cái nhìn sâu sắc và toàn diện hơn về thông điệp mà tác giả muốn truyền tải. 

>> Xem thêm: Soạn văn 9 Chân trời sáng tạo

1.3 Câu 3 trang 49 SGK Văn 9/1 Chân trời sáng tạo

Tác giả bài viết đã phân tích được lí lẽ, bằng chứng để làm sáng tỏ nên những đặc sắc về nghệ thuật của truyện Bồng chanh đỏ như thế nào?

Lời giải chi tiết:

Để làm rõ các đặc sắc nghệ thuật của "Bồng chanh đỏ," tác giả bài viết đã phân tích thông qua ba lý do chính: cách xây dựng cốt truyện, cách khắc họa tâm lý nhân vật và cách chọn lọc chi tiết tiêu biểu. Tương ứng với mỗi lý do, tác giả đã đưa ra những bằng chứng xác thực từ tác phẩm để chứng minh, từ đó rút ra những nhận xét xác đáng và có tính thuyết phục cao. Những phân tích này không chỉ làm nổi bật các yếu tố nghệ thuật đặc sắc mà còn giúp người đọc hiểu sâu hơn về cách tác giả đã tạo nên sức hấp dẫn cho tác phẩm.

1.4 Câu 4 trang 49 SGK Văn 9/1 Chân trời sáng tạo

Theo em, phần mở bài và kết bài có đặc điểm gì ấn tượng? Trình bày thêm về một số cách viết để có thể có được phần mở bài và kết bài được lôi cuốn, hấp dẫn.

Lời giải chi tiết:

- Phần mở bài và kết bài của bài viết gây ấn tượng bởi cả hai đều tập trung vào những đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm. Ở phần mở bài, bài viết cần khái quát về chủ đề chính và các nét đặc sắc nghệ thuật nổi bật của tác phẩm, tạo tiền đề cho phần phân tích chi tiết. Trong khi đó, phần kết bài có nhiệm vụ khẳng định lại các quan điểm đã trình bày về nội dung và nghệ thuật, đồng thời nêu cảm nghĩ và tác động của tác phẩm đối với người viết. Sự đồng nhất và liên kết giữa hai phần này giúp người đọc có cái nhìn rõ ràng và sâu sắc hơn về giá trị của tác phẩm.

- Bên cạnh cách viết mở bài và kết bài giống như trên, ta cũng có thể viết mở bài và kết bài theo cách sau đây:

+ Mở bài: Giới thiệu khái quát về đề tài, chủ đề lớn/ những nét đặc sắc trong nghệ thuật tiêu biểu để dẫn vào chủ đề/ nghệ thuật của tác phẩm.

+ Kết bài: Khẳng định lại giá trị của tác phẩm đối với đời sống của mỗi chúng ta.

Khóa học DUO dành riêng cho các em bậc THCS từ nhà trường VUIHOC, các em sẽ được học cùng các thầy cô TOP trường điểm quốc gia với kinh nghiệm giảng dạy phong phú. Đăng ký học thử để được trải nghiệm buổi học trực tuyến hoàn toàn miễn phí nhé!

2. Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học: Thực hành viết 

Đề bài: Câu lạc bộ Văn học của trường em đã phát động một cuộc thi viết “Tác phẩm văn học trong tôi”. Em hãy chọn ra một tác phẩm văn học mà mình yêu thích (thơ hoặc truyện) để viết một bài nghị luận và sau đó gửi cho ban tổ chức cuộc thi.

2.1 Bài viết tham khảo 1

Giống như nhiều nhà thơ, nhà văn trưởng thành trong kháng chiến chống Mỹ, Bảo Ninh cũng khai thác đề tài chiến tranh. Tuy nhiên, góc nhìn của Bảo Ninh về chiến tranh lại rất chân thực và khác biệt. Tác phẩm của ông không mang màu sắc sử thi hào hùng hay thi vị, mà lại chứa đựng những nỗi buồn sâu lắng. Những nỗi buồn này là hệ quả của chiến tranh, ăn sâu vào tâm hồn con người và âm ỉ lan tỏa, gây nên đau đớn cùng cực. Chính điều này khiến các tác phẩm của Bảo Ninh luôn có sức tác động mạnh mẽ đến người đọc, giúp họ cảm nhận rõ nét nỗi đau ẩn sâu trong tâm hồn nhân vật. Nỗi đau ấy được ông khắc họa rất sâu sắc trong truyện ngắn "Bí ẩn của làn nước". Với cách tiếp cận này, Bảo Ninh không chỉ phản ánh hiện thực tàn khốc của chiến tranh mà còn lột tả được những tổn thương tâm lý mà con người phải chịu đựng.

Cũng khai thác đề tài chiến tranh như trong truyện ngắn "Giang" và tiểu thuyết "Nỗi buồn chiến tranh", Bảo Ninh trong "Bí ẩn của làn nước" tiếp tục nhìn chiến tranh qua lăng kính của nỗi buồn. Ở tác phẩm này, nhà văn không tập trung vào nỗi đau của người lính khi phải đối mặt với những ám ảnh, kinh hoàng trên chiến trường hay mất mát bạn bè, người thân và người yêu trong chiến tranh. Thay vào đó, ông chọn cách khắc họa nỗi đau của những người nông dân phải gánh chịu trong thời kỳ chiến tranh. Bảo Ninh miêu tả sâu sắc những tổn thương mà chiến tranh gây ra cho họ, từ mất mát tài sản đến sự tan nát của gia đình, từ nỗi sợ hãi trước bạo lực đến sự bất lực trước cảnh tượng hoang tàn. Với cách tiếp cận này, ông làm nổi bật những khía cạnh khác của nỗi đau chiến tranh, đem lại cho người đọc một cái nhìn toàn diện và sâu sắc hơn về hậu quả tàn khốc của nó.

Chiến tranh luôn đi kèm với những biến cố lịch sử và mang theo bao mất mát, đau thương. Trong "Bí ẩn của làn nước," Bảo Ninh đã khắc họa sâu sắc những ám ảnh kinh hoàng mà chiến tranh gây ra cho người dân nơi hậu phương. Những hình ảnh tàn phá, sự mất mát người thân và nỗi sợ hãi trước những nguy cơ luôn rình rập đã khiến cuộc sống của họ trở nên đầy bất ổn và đau thương. Tác phẩm không chỉ dừng lại ở việc miêu tả sự tàn khốc của chiến tranh mà còn làm nổi bật những hậu quả lâu dài mà nó để lại trong lòng người dân, tạo nên một bức tranh chân thực và xúc động về thời kỳ đen tối ấy: “Năm ấy, nhằm trúng đỉnh lũ đêm Rằm tháng Bảy, một loạt bom Mỹ phá tan vệt canh giữ đằng trước làng tôi. Dứt dây nổ của bom và tiếng gầm ghê rợn của máy bay cường kích là chuỗi ầm ầm long lỡ của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng”. Bom đạn đã phá hủy đê điều, làm ngập làng mạc và đồng ruộng, khiến những người nông dân rơi vào cảnh khốn khổ và tuyệt vọng: “Nước đã ngập làng. Tôi về, kịp dìu vợ leo lên mái thì vừa đợt dâng nước thứ hai. Mái nhà tranh của vợ chồng tôi bị lôi đi trong đêm. Đến khi mái rạ sắp rã tan ra thì ơn trời nó vương vào thân đa trước đình làng. Đã cả một đám đông bám trên các cành… Vợ tôi ôm khư khư đứa con mới sinh, nhất định không để tôi bế đỡ.”. Không chỉ dừng lại ở đó, người dân càng thêm tuyệt vọng khi thời gian trôi qua mà mưa vẫn không ngừng rơi, gió tiếp tục gào thét, và dòng nước mỗi lúc một dữ dội hơn. Dòng nước xiết ấy không chỉ nhấn chìm ngôi làng, cuốn trôi hết tài sản của những người nông dân, mà còn cướp đi sinh mạng của những người yếu đuối như phụ nữ và trẻ em. Sự tàn phá không ngừng của thiên nhiên khiến người dân nơi đây rơi vào cảnh khốn cùng, gánh chịu những mất mát đau thương không gì bù đắp được: “Vợ tôi “ối” kêu một tiếng thảng thốt, và “ùm”, con trai tôi, đứa con sơ sinh tôi chưa được nhìn thấy mặt, tuột khỏi bọc ni lông trên tay mẹ nó, san xuống làn nước tối tăm”.

- Trời ơi! Con tôi...! - Vợ tôi hét rú lên và lao ngay lập tức xuống hòng chụp lấy con.

Tôi phóng mình theo. Nước lạnh, ngầu bùn, sâu hút và cuốn mạnh. Tôi vớ kịp thằng con, nhao vội lên, trao nó cho những bàn tay đang chìa xuống, rồi lại lặn tiếp ngay để cứu vợ.” Chiến tranh đã cướp đi tài sản, người vợ, và cả đứa con trai mà nhân vật "tôi" chưa kịp nhìn thấy. Thời gian trôi qua, dòng nước năm ấy vẫn mang theo những bí mật đau đớn mà anh giấu kín trong lòng, những nỗi mất mát mà không gì có thể xóa nhòa: “Từ bấy tới nay, thời gian trôi qua và triền nước trôi đi, tôi đã có tuổi và con gái tôi đã thành một thiếu nữ đẹp nhất làng. Nó là đứa con của làn nước, mọi người đều nói thế bởi vì chuyện nó sa xuống dòng nước lụt rồi được cha nó cứu lên thì cả làng ai cũng biết. Nhưng điều bí mật kia thì không ai hay, kể cả con gái tôi nó cũng không thể biết. Chỉ có dòng sông biết.”. Nỗi đau đớn và ám ảnh từ năm đó đã trở thành nỗi ấm ức, nỗi buồn âm ỉ trong lòng anh. Mất vợ và con trong đêm vỡ đê ấy là nỗi đau khôn nguôi sẽ theo anh suốt đời, không cách nào chối bỏ được: “Có ngày nào mà tôi không ra đê ngắm làn nước trôi. Vợ tôi, con trai tôi và người đàn bà vô danh nhìn tôi từ đáy nước. Thời gian, năm tháng cứ trôi, dòng sông và lịch sử tất thảy đều đổi thay nhưng mà niềm đau của đời tôi thì khôn nguôi bởi vì ấy là một niềm đau không thể nói nên lời.” Như vậy, chỉ trong thời gian là một đêm mà biết bao nhiêu sự kiện, bao nỗi đau đớn đã túa ra, ngập tràn cả lên trên trang sách.

Bảo Ninh đã thành công trong việc xây dựng nên không gian nghệ thuật chứa đựng bao nỗi kinh hoàng, hoảng sợ, và đau đớn. Bên cạnh thời gian nghệ thuật, cốt truyện biên niên và nhân vật, không gian đó đẩy con người vào những bi kịch thê thảm và tồi tệ nhất. Trong đêm tối, lồng trong tiếng nổ của cơn mưa bom đạn và máy bay cường kích đó là “chuỗi ầm ầm long lở của dòng sông phá bung đê tràn ngang vào đồng ruộng.”. Trong bối cảnh hỗn loạn, dòng nước dữ dội cuốn trôi nhà cửa, làng mạc và ruộng đồng, người dân chỉ còn cách bám víu vào những cành cây đa trước đình làng để tìm sự sống sót. Giữa làn nước cuộn xiết, hình ảnh những người không may bị cuốn đi bắt đầu hiện lên rõ rệt. Qua đó, chiến tranh không chỉ đem đến sự khiếp sợ mà còn gây ra những tai ương và nỗi đau tột cùng cho con người. Trong truyện ngắn này, thông qua cái nhìn của nhân vật “tôi”, ta chứng kiến một hiện thực tàn khốc: những người nông dân không chỉ mất mát nhà cửa và tài sản mà còn phải gánh chịu sự mất mát đau đớn của vợ con và những người thân yêu nhất. Hình ảnh này phản ánh một phần sự tàn nhẫn của chiến tranh, làm nổi bật nỗi đau và khổ cực mà nó mang lại cho những người dân vô tội. Không gian đau thương kết hợp với thời gian ngắn ngủi càng làm nổi bật sự mong manh của con người trong thời kỳ chiến tranh. Con người bị dồn vào những nỗi đau tột cùng, mất mát không thể cứu vãn hay chữa lành. Những vết thương tâm hồn đó dần trở thành bí ẩn sâu kín mà con người giấu trong lòng, giống như bí mật trong cuộc đời người đàn ông kia, hay hình ảnh cô bé gái chìm sâu trong làn nước, vẫn trôi chảy theo thời gian mà không hề biến mất.

Trong hoàn cảnh tàn khốc của chiến tranh, mỗi cá nhân phải đối diện với những tổn thương và mất mát không ngừng. Chiến tranh không chỉ lấy đi sinh mạng mà còn để lại những vết sẹo không thể nào xóa nhòa trong tâm hồn con người. Từng khoảnh khắc trong cuộc sống trở nên quý giá nhưng lại mong manh hơn bao giờ hết. Những ký ức đau thương dần trở thành một phần không thể tách rời, như dòng sông chảy mãi không ngừng, mang theo những nỗi buồn và mất mát không thể bù đắp. Người đàn ông với những điều bí ẩn trong cuộc đời và cô bé nằm sâu trong làn nước là những biểu tượng của sự đau thương và mất mát không thể nào quên. Họ sống với những vết thương không thể chữa lành, những nỗi đau không thể nguôi ngoai. Mỗi ngày trôi qua, họ phải đối mặt với thực tế tàn khốc, phải tìm cách sống sót trong một thế giới đầy bất trắc và đau thương.

“Các dòng sông trôi đi như thời gian, và cũng như thời gian, trên mặt nước các triền sông biết bao nhiêu là chuyện đời đã diễn ra.”. Thật vậy, chiến tranh cho dù đã đi qua nhưng bao những nỗi đau, những mất mát mà nó để lại cho tâm hồn, trong cuộc sống của mỗi người thì vẫn còn đó. Đặc biệt là trong truyện ngắn Bí ẩn của làn nước, ta có thể thấy được rằng Bảo Ninh không chỉ khám phá chủ đề chiến tranh qua nỗi đau và mất mát của người lính mà còn qua sự đau đớn trong tâm hồn những người nông dân. Bằng cách này, ông không chỉ lên án và tố cáo chiến tranh mà còn bày tỏ sự đồng cảm sâu sắc với những con người chịu đựng sự tàn phá của nó. Qua tác phẩm của mình, ông thể hiện rõ tinh thần phê phán chiến tranh, đồng thời thấu hiểu và chia sẻ với những nỗi đau tinh thần của các nạn nhân, từ người lính đến người nông dân, tất cả đều chịu sự giày vò khắc nghiệt mà chiến tranh mang lại.

Khóa học DUO cung cấp cho các em nền tảng kiến thức vững chắc, bứt phá điểm 9+ trong mọi bài kiểm tra trên lớp.

2.2 Bài viết tham khảo 2

Tố Hữu là một trong những nhà thơ vĩ đại của nền thơ hiện đại Việt Nam. Ông để lại dấu ấn sâu đậm với bảy tập thơ lớn, trong đó tác phẩm của ông được coi là một bản biên niên sử bằng thơ về cách mạng Việt Nam. Đối với Tố Hữu, con đường thơ ca không chỉ là sự nghiệp văn học mà còn là một phần quan trọng trong cuộc cách mạng. Thơ của ông không ngừng đồng hành với cuộc cách mạng và phản ánh rõ nét các giai đoạn quan trọng trong lịch sử dân tộc. Trong bài thơ "Nhớ đồng," Tố Hữu thể hiện sâu sắc nỗi niềm nhớ nhung về quê hương, cảnh vật, con người, và các đồng chí trong thời gian ông bị giam cầm tại nhà lao Thừa Thiên Huế. Tác phẩm không chỉ là sự thể hiện cảm xúc của một người tù cộng sản trẻ tuổi mà còn là tiếng lòng đau đáu về quê hương và đồng bào trong những ngày tháng đầy thử thách. Bằng ngôn từ chân thành và xúc động, Tố Hữu đã chuyển tải những cảm xúc chân thật và sâu sắc nhất của mình qua bài thơ này. 

Vào tháng 7 năm 1939, Tố Hữu bị thực dân Pháp bắt và giam giữ tại nhà tù Thừa Thiên Huế. Dù phải chịu đựng cảnh tù ngục khắc nghiệt, ông vẫn tiếp tục sáng tác thơ. Bài thơ "Nhớ đồng" được viết trong hoàn cảnh đó và được đưa vào tập thơ "Từ ấy," nằm trong phần xiềng xích của tập. Đây là một trong những tác phẩm tiêu biểu của tập thơ "Từ ấy," phản ánh rõ nét tâm trạng và cảm xúc của Tố Hữu trong thời gian bị giam cầm. Bài thơ không chỉ thể hiện nỗi nhớ quê hương mà còn là tiếng nói của một tâm hồn kiên cường trong hoàn cảnh gian khổ. 

“Gì sâu bằng những trưa thương nhớ 

Hiu quạnh bên trong một tiếng hò!

 Đâu gió cồn thơm đất nhả mùi 

Đâu ruồng tre mát thở yên vui 

Đâu từng ô mạ xanh mơn mởn 

Đâu những nương khoai ngọt sắn bùi?” 

Trong bối cảnh trữ tình, một tiếng hò lẻ loi vang lên giữa trời trưa khiến thi sĩ cảm nhận sâu sắc sự hiu quạnh của không gian và thời gian. Tiếng hò đơn độc ấy gợi lên nỗi nhớ quê hương và những người lao động vất vả trên cánh đồng. Sự đồng cảm của thi sĩ không chỉ đối với cảnh vật xung quanh mà còn với nỗi cô đơn và sự hiu quạnh của chính mình. Đây là sự hòa quyện của nhiều nỗi buồn: nỗi hiu quạnh của không gian vắng vẻ, sự trống trải của thời gian buổi trưa, cuộc đời nhọc nhằn và sự cô đơn ngay trong tâm hồn người đang bị giam cầm trong bốn bức tường đá, xa rời thế giới bên ngoài. Nội dung của hai câu thơ như vang lên một tiếng than, thể hiện nỗi lòng sâu sắc của thi sĩ về cuộc sống và cảnh ngộ của mình, đồng thời phản ánh những cảm xúc đau đớn và lẻ loi trong hoàn cảnh khó khăn. Tiếng kêu vang lên như một lời xác nhận về nỗi quạnh hiu sâu thẳm mà thi sĩ đang trải qua. Đó không chỉ là tiếng kêu phản ánh sự cô đơn tuyệt đối, không thể sánh nổi với bất kỳ điều gì khác, mà còn là một triết lý về sự quạnh hiu cùng cực. Qua tiếng kêu ấy, người ta cảm nhận được một cõi lòng vắng lặng, do sự cách biệt và thiếu vắng cảnh sắc cuộc sống bên ngoài tạo ra. Nỗi quạnh hiu mà thi sĩ trải qua là của một tâm hồn yêu đời, bị tách biệt khỏi cuộc sống thường nhật. Âm thanh của tiếng hò gợi nhớ về quê hương, nơi mà thế giới bên ngoài hiện lên đầy đủ với đồng quê, hình ảnh con người, hương thơm, màu sắc và âm thanh đặc trưng. Những hình ảnh và âm thanh này trở nên đặc biệt thân thuộc và da diết trong tâm trí thi sĩ. Trong sự xa cách, nỗi nhớ về quê hương trở nên mãnh liệt hơn bao giờ hết. Mỗi chi tiết như hình ảnh, mùi vị, âm thanh và màu sắc của quê hương đều trở nên gần gũi và cảm xúc hơn trong tâm hồn thi sĩ, tạo nên một cảm giác lạ thường và sâu sắc về sự thiếu vắng và nỗi nhớ quê.

“Gì sâu bằng những trưa hiu quạnh 

Ôi ruộng đồng quê thương nhớ ơi! 

Đâu những lưng cong xuống luống cày 

Mà bùn hy vọng nức hương ngây 

Và đâu hết những bàn tay ấy

 Vãi giống tung trời những sớm mai?” 

Hiệu quả nghệ thuật của việc lặp lại trong thơ không chỉ là sự liên kết các phần nội dung mà còn tạo ra một tác động biểu cảm mạnh mẽ. Khi lặp lại từ ngữ, tác giả có khả năng kết nối những phần nội dung khác nhau, dù có thể chúng có vẻ xa lạ với nhau, khiến chúng trở nên mạch lạc và đồng nhất hơn. Việc sử dụng lặp lại và điệp từ không chỉ giúp xây dựng cấu trúc liền mạch cho tác phẩm mà còn đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra cảm xúc sâu sắc và mạnh mẽ. Lặp lại và điệp từ thường hoạt động như một điệp khúc trong tác phẩm, làm nổi bật và làm sâu sắc thêm những cảm xúc mà tác giả muốn truyền tải. Chúng nhấn mạnh và tô đậm các cảm xúc, làm cho những ý tưởng trở nên rõ nét và khắc sâu hơn trong tâm trí người đọc. Sự lặp lại tạo ra một nhịp điệu luân hồi, một sự chuyển động liên tục trong tác phẩm, khiến cho nỗi niềm của tác giả trở nên mãnh liệt và không thể nguôi ngoai.

Khi nỗi nhớ quê hương được thể hiện qua việc lặp lại, cảm giác về đồng quê trở nên sống động và rõ nét hơn bao giờ hết. Những hình ảnh và âm thanh của quê hương không chỉ được tái hiện một cách chân thực mà còn được khắc họa sâu sắc trong tâm trí người đọc. Nỗi nhớ quê hương, qua lặp lại và điệp từ, trở nên da diết và nặng trĩu, làm nổi bật sự thiếu vắng và sự gắn bó mật thiết giữa tác giả và quê hương. Qua sự lặp lại, đồng quê hiện lên không chỉ là một phần của ký ức mà còn là một phần không thể tách rời của tâm hồn tác giả, tạo nên một ấn tượng mạnh mẽ và sâu sắc về tình cảm quê hương. Những cảnh sắc quê hương hiện lên rõ nét qua hình ảnh đồng ruộng với cánh đồng xanh tươi, những cồn thơm, ô mạ mới mọc, và nương khoai sắn ngọt bùi. Xóm làng yên ả, con đường mòn theo năm tháng đã mòn dần, tất cả tạo nên một bức tranh đơn sơ nhưng đầy thân thuộc và gần gũi. Bóng dáng của những người lao động cần cù, nhọc nhằn, cùng hình ảnh người mẹ già đơn chiếc, là những biểu tượng của sự gắn bó lâu dài với mảnh đất quê hương. Họ sống giản dị, chất phác, và kiên trì, phản ánh sự bền bỉ và gắn bó với đất đai như chính những cảnh vật xung quanh. Những hình ảnh này không chỉ gợi nhớ về một quê hương giản dị mà còn làm nổi bật sự đồng điệu và gắn bó bền chặt giữa con người và quê hương.

 “Rồi một hôm nào, tôi thấy tôi 

Nhẹ nhàng như con chim cà lơi 

Say hương đồng vui ca hát 

Trên chín tầng cao bát ngát trời” 

Hình ảnh con chim sơn ca trong bài thơ đại diện cho khát vọng mãnh liệt về tự do, như là một ước muốn mãnh liệt được bay lượn trên bầu trời rộng lớn, trở về với cộng đồng và cuộc sống tự do của con người. Đây là biểu hiện của niềm vui sâu sắc nhất mà một người chiến sĩ trong cảnh tù đày có thể cảm nhận. Tâm trạng của tác giả trong bài thơ được thể hiện một cách chân thực và mạch lạc, phản ánh rõ nét cảm xúc và suy nghĩ của ông. Nỗi nhớ và khát khao tự do được khơi dậy từ âm thanh của một "tiếng hò đưa hố não nùng," làm nổi bật sự chuyển biến cảm xúc từ nỗi cô đơn, giam cầm đến niềm hy vọng và ước mơ về tự do. Tiếng hò trong bài thơ gợi dậy một thế giới đồng quê sống động, từ cảnh sắc đến những hình ảnh quen thuộc. Nó khơi dậy ký ức về những ngày tháng tự do, khi tác giả còn có thể cống hiến cho cách mạng với tất cả nhiệt huyết. Tuy nhiên, nỗi nhớ và niềm khao khát tự do lại đối lập với thực tại đau đớn của nhà tù hiện tại, nơi ông bị giam cầm. Bài thơ đầy ắp nỗi nhớ thương mãnh liệt và không nguôi, tạo nên một cảm giác sâu sắc về sự mất mát và khao khát tự do. Từ những cảm xúc chân thành và đau đớn đó, độc giả không chỉ cảm nhận được nỗi lòng của tác giả mà còn thêm ngưỡng mộ hình ảnh người chiến sĩ cách mạng và nhà thơ Tố Hữu, với sự kiên cường và tâm huyết trong từng câu chữ. 

Bài thơ "Nhớ đồng" thành công trong việc thể hiện tâm trạng của người tù cộng sản với sự chân thực sâu sắc. Những cảm xúc trong bài thơ, từ nỗi nhớ quê hương đến khao khát tự do, lặp đi lặp lại một cách mạnh mẽ, phản ánh sự cháy bỏng của tình yêu quê hương và lòng yêu nước sục sôi của người thanh niên. Các cảm xúc này không chỉ vẽ nên bức tranh rõ nét về sự đau đớn và khát vọng tự do mà còn làm nổi bật sự gắn bó sâu sắc với quê hương. Chính từ những nỗi nhớ và khát khao này, tác giả đã cảm thấy thêm phần quyết tâm và ý chí để vượt qua mọi khó khăn và thách thức. Sự kết hợp giữa tình yêu quê hương và lòng kiên cường trong bài thơ thể hiện sự nỗ lực không ngừng của tác giả trong việc duy trì tinh thần cách mạng và ý chí chiến đấu.

 

HỌC ONLINE CÙNG GIÁO VIÊN TOP 5 TRƯỜNG ĐIỂM QUỐC GIA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học cá nhân hóa, giúp con tăng 3 - 6 điểm chỉ sau 1 khóa học

⭐ Học chắc - ôn kỹ, tăng khả năng đỗ vào các trường chuyên cấp 2, cấp 3 

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo mong muốn và thời gian biểu cá nhân 

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô, hỗ trợ con 24/7  

⭐ Học lý thuyết đi đôi với thực hành, kết hợp chơi và học giúp con học hiệu quả 

⭐ Công nghệ AI cảnh báo học tập tân tiến, giúp con tập trung học tập

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập được biên soạn bởi các thầy cô TOP 5 trường điểm quốc gia

Trải nghiệm khóa học DUO hoàn toàn miễn phí ngay!!
 

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết bài Soạn bài Viết bài văn nghị luận phân tích một tác phẩm văn học trong sách giáo khoa Chân trời sáng tạo 9 tập 1. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm:

Banner after post bài viết tag lớp 9
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}

VNESCHOOL là nền tảng cung cấp các khoá học online, chất lượng cao cho học sinh tiểu học và THCS. Chúng tôi cam kết mang tới cho học sinh trải nghiệm học đầy hào hứng và hiệu quả, giúp học sinh hiểu sâu, nắm chắc chương trình học trên lớp và đạt điểm cao trong các kì thi. Đồng thời chúng tôi cung cấp công cụ báo cáo cá nhân hoá nhằm hỗ trợ phụ huynh theo dõi sát sao và hiểu được năng lực của con trong quá trình học tập.


Địa chỉ: Tầng 1, Toà nhà Rivera Park , số 69 Vũ Trọng Phụng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Hotline: 0914890900