img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Một thời đại trong thi ca sách kết nối tri thức + cánh diều - Ngữ Văn 11

Tác giả Hoàng Uyên 14:55 30/11/2023 67,613 Tag Lớp 11

“Một thời đại trong thi ca” - Hoài Thanh được ví như một bức tranh sống động miêu tả cuộc sống và tình cảm của con người Việt Nam ở giai đoạn lịch sử biến động. Dưới đây VUIHOC đưa ra soạn bài Một thời đại trong thi ca sách Kết nối tri thức + Cánh diều - Ngữ văn 11 giúp các em cảm nhận một cách đầy đủ về nội dung tác phẩm này.

Soạn bài Một thời đại trong thi ca sách kết nối tri thức + cánh diều - Ngữ Văn 11
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài “Một thời đại trong thi ca” - Về tác giả và tác phẩm

1.1 Tác giả Hoài Thanh

Hoài Thanh sinh vào ngày 23 tháng 9 năm 1941, tại làng Phù Đổng, xã Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ, Việt Nam. Ông thuộc thế hệ các nhà thơ ấn tượng, tiền ấn tượng nổi tiếng của Việt Nam. Cuộc đời và sự nghiệp văn học của Hoài Thanh đã diễn ra trong bối cảnh lịch sử đầy biến động của Việt Nam trong thế kỷ 20.

Hoài Thanh đã bước chân vào thế giới văn học từ rất sớm. Ông theo học tại trường Trung học Bùi Thị Xuân ở Hà Nội, nơi ông đã bắt đầu phát triển đam mê với văn chương và thơ ca. Sự tinh tế và nhạy bén trong việc sử dụng ngôn ngữ đã thể hiện rõ qua những bài thơ đầu tiên của ông. Ông cũng tiếp tục học tại Trường Sĩ quan Lục quân ở Huế và sau đó gia nhập quân đội.

Thời gian này, Hoài Thanh đã trải qua những biến cố lớn trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Những trải nghiệm này đã ảnh hưởng đến tâm hồn và tư duy của ông và thúc đẩy ông sáng tạo ra những tác phẩm đầy tinh thần sâu lắng và triết học.

Tuy cuộc đời của Hoài Thanh đầy khó khăn và gian khổ, nhưng ông vẫn tiếp tục viết thơ và tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đầy tâm hồn. Tác phẩm "Một Thời Đại Trong Thi Ca," xuất bản vào năm 1942, là một tác phẩm quan trọng trong sự nghiệp văn học của ông. Tác phẩm này đã tổng kết lại một giai đoạn mới trong văn học Việt Nam, với việc sáng tạo một phong cách thơ mới, táo bạo và sáng tạo.

>> Xem thêm: Soạn văn 11 chi tiết 

1.2 Tác phẩm Một thời đại trong thi ca 

- Thể loại: văn nghị luận

- Xuất xứ và hoàn cảnh sáng tác:

  • Đoạn trích thuộc phần đầu của quyển “Thi Nhân Việt Nam”, là phần cuối của tiểu luận “Một thời đại trong thi ca”

  • Đây là công trình mang tính chất của một bản “tổng kết” về phong trào Thơ mới ngay trong thời kì phát triển đỉnh cao của nó.

- Bố cục văn bản Một thời đại trong thi ca

  • Phần 1 (từ đầu đến đại thể): Đặt vấn đề tinh thần Thơ mới.

  • Phần 2 (tiếp theo đến băn khoăn riêng): Sự phân biệt thơ cũ và Thơ mới; cảm xúc chủ đạo của Thơ mới.

  • Phần 3 (còn lại): Niềm tin, hi vọng vào sự phát triển của Thơ mới.

- Giá trị nội dung

  • Tác phẩm thể hiện rõ nội dung cốt yếu của tinh thần Thơ mới: Lần đầu tiên chữ tôi với cái nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện trong thi ca đồng thời cũng nói lên cái bi kịch ngấm ngầm trong hồn người thanh niên lúc bấy giờ.

- Giá trị nghệ thuật

  • Nghệ thuật lập luận khoa học, chặt chẽ, thấu đáo, văn phong tinh tế, tài hoa, giàu cảm xúc

2. Soạn bài Một thời đại trong thi ca sách Kết nối tri thức 

2.1 Soạn bài Một thời đại trong thi ca trước khi đọc 

Câu 1 trang 85 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức 

Thông thường, việc phân biệt những đồ vật mới và những đồ vật cũ trong cuộc sống khá dễ dàng, dựa trên đặc điểm ngoại hình, vật liệu và năm sản xuất của chúng. Tuy nhiên, cũng có những khía cạnh mà việc phân biệt giữa các mới và cái cũ trở nên khó khăn. Giả sử như trong ngành đồ cổ, những đồ vật mới sản xuất lại được cố tình ngụy trang cho cũ đi nhằm chuộc lợi. Hay trong trường hợp phục chế, những món đồ cũ lại được tân trang, làm mới để tăng giá trị của chúng. Những trường hợp này đều sẽ khiến người không có chuyên môn gặp khó khăn khi phải phân biệt, lựa chọn. Nhưng khó khăn hơn cả, có lẽ là việc phân biệt những câu từ, khái niệm, nhận định, là cũ hay mới. Đặc biệt, việc phân biệt tính cũ và tính mới trong văn học là điều càng khó khăn bởi đặc thù của văn học là khả năng lưu truyền lâu dài và có sức sống bền lâu.

Câu 2 trang 85 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

So sánh hai bài thơ “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương (sáng tác vào thời kỳ trung đại) và bài thơ “Quê Hương” của Tế Hanh (phong trào thơ mới).

- Về nội dung:

+ Thơ trung đại chủ yếu bày tỏ nỗi lòng và sự cảm thán về thân phận con người, nặng tính chất giáo huấn.

+ Thơ mới có cái nhìn rộng mở hơn, phóng khoáng hơn, không bị ràng buộc bởi các lễ nghi, lễ giáo như ở văn học trung đại. Thơ mới đề cao thể hiện cái “tôi” cá nhân lên trên cái chung của tập thể, xã hội.

- Về hình thức:

+ Thơ trung đại mang tính quy phạm, thể thơ gò bó vào niêm luật, hình ảnh mang nặng tính ước lệ, công thức. Hệ thống ước lệ phức tạp, nghiêm ngặt. 

Ví dụ: Bài thơ “Bánh trôi nước – Hồ Xuân Hương” với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt. Bài thơ chỉ vẻn vẹn trong 4 câu thơ (lời ít nhưng ý nghĩa) nhưng đã khắc họa rõ nét số phận cũng như những phẩm chất tốt đẹp của người phụ nữ trong xã hội phong kiến xưa.

+ Thơ mới không sử dụng nhiều hệ thống ước lệ phức tạp, thoát khỏi cách diễn đạt theo quy tắc cứng nhắc, thể thơ tự do (số tiếng, số dòng, vần, nhịp…) ngôn ngữ thơ cần với lời nói cá nhân, hình ảnh sinh động gần với đời sống.

Đăng ký ngay khóa học PAS THPT để được thầy cô lên lộ trình ôn thi tốt nghiệp ngay từ bây giờ nhé!

2.2 Soạn bài Một thời đại trong thi ca trong khi đọc

Câu 1: Chú ý vấn đề được nêu để bàn luận.

Vấn đề được bàn luận ở đây là việc so sánh giữa thơ mới và thơ cũ. Tuy nhiên, nó không đơn giản chỉ là xem xét về thời điểm sáng tác bài thơ quá khứ hay hiện tại, không đơn thuần là chỉ về ngôn từ sử dụng cũ hay mới, đặc biệt hơn thế, đó là tinh thần thơ mới, là cái hồn của bài thơ, hồn của tác phẩm.

Tinh thần thơ mới là sự tổng hợp của tất cả các yếu tố cấu thành nên bài thơ. Đối tượng, mục đích nhắm đến của bài thơ, chất liệu ngôn từ mà chúng sử dụng, những suy tư tình cảm mà tác giả ẩn chứa trong từng câu thơ vần chữ, v.v. Tất cả cùng hòa quyện với nhau, cùng với hơi thở của thời đại giúp tạo nền cái hồn rất riêng cho từng bài thơ cụ thể mà không ở đâu có được. Và nếu như cái hồn thơ đó hướng đến những thay đổi mới mẻ, hướng tới sự thể hiện cái tôi cá nhân, khác biệt với cái xưa cũ, ấy chính là tinh thần thơ mới.

Câu 2: Cái khó khi phân biệt rạch ròi thơ mới – thơ cũ là gì?

Thơ mới và thơ cũ không có sự phân biệt rạch ròi dễ nhận ra. Vấn đề căn bản và cốt lõi, đó là thiếu vắng một tiêu chuẩn chung, một giá trị chung để có thể phân định rạch ròi thơ mới - thơ cũ. Và đây cũng chính là điều mà tác giả cố gắng trình bày. Hoài Thanh đã cố gắng đưa ra 1 quan điểm về một tiêu chí phân biệt thơ mới - thơ cũ và rồi dùng những bằng chứng cụ thể để chứng minh nó.

Câu 3: Tiêu chí nào được nêu để phân biệt thơ mới – thơ cũ?

Có nhiều tiêu chí để phân biệt thơ mới và thơ cũ. Các tiêu chí này có lúc đúng lúc sai, lúc phù hợp lúc lại không phù hợp. Vậy nên việc phân biệt thơ mới và thơ cũ vẫn là một quá trình phức tạp và khó khăn. Cách duy nhất để hiểu đúng tinh thần thơ là phải so sánh các bài thơ với nhau.

Câu 4: Chú ý cách lập luận của tác giả.

Có thể thấy luận điểm của tác giả Hoài Thanh về tinh thần thơ mới được diễn tả tả sâu sắc và logic nhưng cũng không kém phần thú vị trong phần cuối của tác phẩm “Một thời đại trong thi ca”. Tinh thần thơ mới được thể hiện rõ nhất ở chứ “tôi” - “Ngày trước là thời chữ ta, bây giờ là thời chữ tôi. Nói giống nhau thì vẫn có chỗ giống nhau như chữ tôi vẫn giống chữ ta.” Chữ “tôi” trong tinh thần thơ mới nó đại diện cho cái tôi cá nhân, đại diện cho khao khát được bộc lộ những suy tư tình cảm, cảm xúc cá nhân một cách vô tư nhất, thoải mái nhất.

Khác với ngày xưa, cái tôi cá nhân bao giờ cũng bị lép vế trước cái tôi của cả tập thể xã hội. Cách lập luận của tác giả đi từ khái quát đến cụ thể, từ xa đến gần, từ ngoài vào trong, rất mạch lạc, logic. Việc đặt vấn đề ngắn gọn, rõ ràng cùng việc sử dụng câu văn nghị luận gợi cảm, giàu chất thơ của Hoài Thanh đã giúp chúng ta nhận ra được hàm ý mà tác giả muốn nhắc đến, cũng đồng thời gây hứng thú cho người đọc. 

Câu 5: Tình trạng “cái tôi” khi mới xuất hiện trong văn học Việt Nam. 

Trong thời đại hoàn cảnh khi mà con người ta đã quen với “cái cũ”, nơi có sẵn một quan điểm chiếm lĩnh trên mọi con đường, mọi ngóc ngách của xã hội thì quan điểm, chủ nghĩa cá nhân không được xem trọng, bị coi là nhỏ bé và thậm chí còn bị người đời bài trừ, chỉ trích lên án. Sự xuất hiện của “Cái tôi” tại Việt Nam là một điều quá mới mẻ, mang theo những nghi hoặc, sẽ là những khởi đầu đầy bỡ ngỡ. 

Nhưng phải có những sự tiên phong mới có được những sự phát triển mạnh mẽ về sau. “Cái tôi” xuất hiện, đi ngược lại người đời để len lỏi vào trong tâm trí của con người, lúc đó họ mới đón nhận “Cái tôi” và dần dần chấp nhận sự phát triển của nó. Đây cũng là một khởi đầu mới cho sự xuất hiện và phát triển của phong trào thơ mới. 

Câu 6: Những biểu hiện khác nhau của “cái tôi” trong Thơ mới.

Hoài Thanh đã khát quát bằng những dòng văn hết sức thấm thía và tinh tế, thể hiện phong cách phê bình tinh tế và tài hoa của mình: đời chúng ta nằm trong vòng chữ “tôi”, mất bề rộng ta đi tìm bề sâu nhưng càng đi sâu ta càng lạnh, ta thoát lên tiên cùng Thế Lữ, phiêu lưu trong trường tình cùng Lưu Trọng Lư, say đắm bơ vơ cùng Xuân Diệu. Nhưng động tiên khép lại, điên cuồng rồi tỉnh, say đắm vẫn hoàn bơ vơ ta trở về ngẩn ngơ hồn ta cùng Huy Cận. Hoài Thanh đã khái quát bi kịch muôn thuở và vĩnh cửu của thi nhân muôn thuở, đó là bi kịch cái tôi cô đơn, bơ vơ. Chính vì thế, người nghệ sĩ luôn khát khao sự tri âm đồng cảm từ độc giả.

Thơ mới luôn mang một cái gì đó rất sâu, rất cá nhân - khác với các nhà thơ đi trước: mang một cái gì đó rộng, nhưng nông cạn.

Câu 7: Ý nghĩa của “cái tôi” Thơ mới.  

Có thể thấy, tinh thần thơ mới mà Hoài Thanh đề cập đến được ông miêu tả gói gọn trong một chữ duy nhất, đó là “tôi”. “Cái tôi” này được Hoài Thanh luận giải với ý nghĩa tuyệt đối nhất của nó. “Cái tôi” bên trong nội tâm các nhà thơ mới chính là bản ngã của mỗi con người mà ai cũng có. Cái tôi" đó chính là khát vọng được là chính mình, là sự tự ý thức về cá nhân mình trong cuộc sống xã hội. Và khi được giải phóng thì nó sẽ "làm giàu cho thi ca" bằng những cảm xúc mới mẻ và những cách tân nghệ thuật. “Cái tôi” trong Thơ mới là nơi tác giả thả hồn mình trôi theo những cung bậc cảm xúc khác nhau. Để khi nhìn vào, độc giả thấy được một tâm hồn đang tồn tại, đượm buồn hay vui tươi, bất hạnh hay hạnh phúc từ đó đồng cảm, đồng điệu với cảm xúc của nhà thơ. 

Câu 8:  Chú ý cách sử dụng các biện pháp tu từ trong lời văn nghị luận.

Hoài Thanh đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ để khiến cho lời văn thêm sắc sảo nhưng không kém phần thú vị. 

Biện pháp so sánh "Tiếng việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua." Sự so sánh “Tiếng Việt” với tấm lụa đã tạo ra một sự hình dung về thứ đẹp đẽ, tinh tế và quý giá, nó không chỉ mang mang sắc văn hóa qua nhiều thế hệ mà còn chưa đúng vong hồn của con người các thời đại. 

Biện pháp điệp cấu trúc (điệp ngữ) “Chưa bao giờ” được tác giả nhắc lại những ba lần ở đầu mỗi câu nhằm nhấn mạnh sự phát triển, sự độc đáo và tiến bộ của Thơ mới. Thơ mới có thể như một điều vĩ đại mới của nhân loại, một phát kiến chưa từng có, hết sức mới mẻ hết sức cuốn hút, hết sức hấp dẫn.

Cuối cùng so sánh "tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt." So sánh “Tinh thần nòi giống” với “các thể thơ xưa” để thể hiện sự mãnh liệt đan xen với niềm tự hào về tinh thần dân tộc. 

Việc sử dụng các biện pháp so sánh đan xen với điệp ngữ một cách tinh tế cùng với việc chọn lọc các từ ngữ gợi cảm "tấm lụa," "can đảm," "tấm hồn," và "bất diệt", Hoài Thanh đã tạo nên được sự linh hoạt và thú vị cho bài nghị luận. Có thể nói cách hành văn của tác giả quả rất tinh tế, tài hoa

2.3 Soạn bài Một thời đại trong thi ca sau khi đọc  

Câu 1 trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức 

Để làm sáng tỏ và xuyên suốt luận đề “tinh thần Thơ mới", tác giả đã sử dụng và nếu bật những luận điểm:

- Đưa ra sự so sánh giữa Thơ mới và thơ cũ từ đó nêu lên mối quan hệ giữa chúng

- Điểm khác nhau giữa Thơ mới và thơ cũ

- Ý nghĩa của “cái tôi” trong Thơ mới

- Khẳng định một lần nữa sự độc đáo, mới lạ và chưa từng có của Thơ mới. 

→ Giữa các luận điểm có sự liên kết chặt chẽ với nhau, trình bày theo mạch hợp lí. Đầu tiên để hiểu về nguồn gốc và sự ra đời, tác giả chỉ ra điểm khác nhau nhưng khó phân biệt giữa 2 thể loại thơ. Tiếp đó, tác giả nhấn mạnh sự khác nhau đó bằng việc khẳng định một yếu tố rất riêng và hay trong Thơ mới là “cái tôi”. Cuối cùng, ông kết luận sự ra đời của Thơ mới là một sự bước tiến vượt bậc trong nhận thức của các nhà thơ thời bấy giờ khi họ dũng cảm đứng lên nói lên tâm tư, tình cảm của mình một cách thẳng thắn. 

Câu 2  trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

Trong phần đầu văn bản, tác giả đưa ra các tiêu chí so sánh thơ cũ và thơ mới nhằm mục đích chính là xác định và làm sáng tỏ sự khác biệt, sự đổi mới và sự phát triển trong thơ ca Việt Nam. Mục đích là giúp người đọc hiểu rõ hơn về tinh thần thơ mới và những điểm đặc trưng của nó so với thơ cũ. Bằng cách so sánh các tiêu chí như ngôn ngữ, hình thức, chủ đề, tác giả muốn tạo ra một khung cảnh toàn diện về sự thay đổi trong lĩnh vực thơ ca Việt Nam. Điều này giúp người đọc có cái nhìn tổng quan về sự phát triển của thơ và hiểu rõ hơn tại sao thơ mới được coi là một giai đoạn quan trọng trong văn học nước ta. Ngoài ra, việc so sánh cũng có thể nhấn mạnh sự đánh giá và nhận xét của tác giả về sự phát triển của thơ ca và tạo ra sự rõ ràng về những thay đổi cụ thể mà tác giả muốn bàn luận trong bài viết.

Câu 3  trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

Tác giả đã thể hiện sự nhận thức tuyệt vời qua những bài thơ mới. Ông đi sâu vào cái “tôi”: “đời chúng ta nằm trong vòng cái tôi”, “mất bề rộng ta đi tìm bề sâu”. “Mất bề rộng” có nghĩa là không còn nhìn vào cái chung, cái cộng đồng thơ cũ. Chiều sâu ở đây được hiểu là khám phá nội tâm của bản thân và đi sâu vào ý thức cá nhân của mỗi người. Nhưng càng đào sâu vào cái “tôi” cá nhân, các nhà thơ lại càng cảm thấy cô đơn lạc lõng. Đó chính là bi kịch của thời đại thơ mới. Vì tâm hồn nhà thơ được bao bọc trong chữ “tôi” nên họ dễ cảm thấy cô đơn, lạnh lẽo, và thường được gọi là “cái tôi tội nghiệp”. Từ đó Hoài Thanh đúc kết: “chưa bao giờ thơ Việt Nam buồn mà nhất là xôn xao đến thế”.

Lối dẫn dắt và lối tranh luận của tác giả càng chặt chẽ hơn khi sử dụng những ví dụ cụ thể, đưa ra những so sánh, đặc biệt là trích dẫn câu chuyện Cao Bá Nha và bà Phú ở bến cảng Cam Đường. Điều này giúp khẳng định sự bất lực của nhà thơ mới. Nỗi buồn trong bài thơ được thể hiện như một bi kịch diễn ra trong thầm kín. Nhưng chính nỗi buồn, sự cô đơn lại mang đến rất nhiều ý nghĩa cho người đọc, cho phong cách thơ riêng của mỗi người.

Câu 4  trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

Trong tác phẩm của mình, Hoài Thanh liên tục đưa ra nhiều bằng chứng cụ thể và hợp lý, đây là điểm đặc trưng của một văn bản nghị luận sử dụng thao tác lập luận chứng minh. Ngay từ đầu văn bản, tác giả đã trích dẫn những câu thơ của Xuân Diệu và bà Huyện Thanh Quan. Ở giữa văn bản là những câu thơ của Lý Thái Bạch. Theo sau đó là một loạt các cái tên nổi tiếng như Thế Lữ, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên, v.v. được sử dụng để củng cố thêm luận điểm cho câu nói của tác giả. Hay như phần dẫn chứng về bi kịch của Cao Bá Nha và Tầm Dương. Và kết lại bằng câu nói của ông chủ báo Nam Phong. Tất cả những cái tên đó, những con người đó, những câu trích dẫn đó, đều được sử dụng một cách hợp lý đến ngạc nhiên để củng cố thêm vững chắc cho quan điểm về cái “tôi” trong thơ mới của Hoài Thanh. 

Câu 5  trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

Hoài Thanh đã khéo léo sử dụng các biện pháp nghệ thuật tu từ để khiến cho lời văn thêm sắc sảo nhưng không kém phần thú vị. Biện pháp so sánh "Tiếng việt, họ nghĩ, là tấm lụa đã hứng vong hồn những thế hệ qua." Sự so sánh “Tiếng Việt” với tấm lụa đã tạo ra một sự hình dung về thứ đẹp đẽ, tinh tế và quý giá, nó không chỉ mang mang sắc văn hóa qua nhiều thế hệ mà còn chưa đúng vong hồn của con người các thời đại. 

Biện pháp tu từ mà tác giả Hoài Thanh đã sử dụng trong đoạn văn là đó chính là biện pháp tu từ điệp cấu trúc (điệp ngữ). Cụm từ “Chưa bao giờ” được tác giả nhắc lại những ba lần ở đầu mỗi câu nhằm nhấn mạnh sự phát triển, sự độc đáo và tiến bộ của Thơ mới. Thơ mới có thể như một điều vị đại mới của nhân loại, một phát kiến chưa từng có, hết sức mới mẻ hết sức cuốn hút, hết sức hấp dẫn.

Cuối cùng so sánh "tinh thần nòi giống cũng như các thể thơ xưa chỉ biến thiên chứ không sao tiêu diệt." So sánh “Tinh thần nòi giống” với “các thể thơ xưa” để thể hiện sự mạnh mẽ, mãnh liệt cũng đan xen vào lòng tự hào về tinh thần dân tộc. 

Việc sử dụng các biện pháp so sánh đan xen với điệp ngữ một cách tinh tế cùng với việc chọn lọc các từ ngữ gợi cảm "tấm lụa," "can đảm," "tấm hồn," và "bất diệt", Hoài Thanh đã tạo nên được sự linh hoạt và thú vị cho bài nghị luận. Có thể nói cách hành văn của tác giả quả rất tinh tế, tài hoa

Câu 6  trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

Hiểu biết về phong trào Thơ mới: Hoài Thanh định nghĩa thơ mới không chỉ là sự đổi mới về hình thức mà còn về nội dung. Ông cho rằng thơ Việt Nam đã trải qua sự chuyển đổi từ chữ "ta" sang chữ "tôi" qua các thời kỳ. Tức là, thơ mới không chỉ thể hiện sự đổi mới về cái tôi của người thơ mà còn về cách thức thể hiện nó qua thơ.

Khái niệm thơ Mới: Ban đầu, thơ mới được hiểu là thơ tự do, nhưng theo thời gian, nó đã phát triển và được bổ sung, hoàn thiện. Thơ mới không chỉ đơn giản là thơ tự do mà là thơ ca phản ánh tâm hồn, tâm trạng và cái tôi của người thơ thông qua nhiều cung bậc, biểu hiện đa dạng, và phức tạp. Cái mới ở đây không chỉ về hình thức mà còn về cách thức thể hiện tâm trạng và suy tư của người thơ.

Mối quan hệ giữa các luận điểm này là rõ ràng: Hoài Thanh cố gắng giải thích sự phát triển của thơ Mới từ việc hiểu biết về phong trào này đến khái niệm thơ Mới được xác định lại. Ông thể hiện sự hiểu biết sâu rộng về thơ Mới thông qua việc nhấn mạnh tầm quan trọng của việc hiểu đúng về cái mới này và cách thức thể hiện nó, đồng thời sử dụng một lối văn phê bình sáng tạo và hấp dẫn để thuyết phục người đọc.

2.4 Kết nối đọc viết trang 89 SGK Văn 11/1 Kết nối tri thức

Ý kiến của Hoài Thanh về việc các nhà thơ Thơ mới "dồn tình yêu quê hương trong tình yêu tiếng Việt" thực sự nêu bật tầm quan trọng của ngôn ngữ và văn hóa trong thơ ca. Điều này thể hiện sự nhạy bén của các nhà thơ theo phong trào Thơ mới khi họ không chỉ thể hiện tình yêu và đồng cảm với quê hương mình, mà còn thông qua ngôn ngữ tiếng Việt để giãi bày cái thứ tình cảm cao đẹp thiêng liêng này. Thơ mới không chỉ đánh dấu một bước ngoặt lớn về hình thức, mà còn đánh dấu một tâm hồn sáng tạo mới. Nó tập trung vào việc sáng tạo và thể hiện tình cảm qua ngôn ngữ quê hương.

Các nhà thơ Thơ mới đã tận dụng tốt tiếng Việt, vốn ngôn ngữ phong phú và tươi đẹp, để xây dựng các tác phẩm thơ đầy màu sắc và sâu sắc. Qua việc này, họ đã góp phần làm phong phú và phát triển ngôn ngữ tiếng Việt, bảo tồn và phát triển di sản văn hóa của Việt Nam. Cách thể hiện tình yêu quê hương thông qua tình yêu tiếng Việt làm cho thơ mới trở nên đậm đà, sâu sắc và gắn kết mạnh mẽ với đất nước. Các nhà thơ đã sáng tạo bằng cách đặt mọi câu từ, từng cụm từ sao cho chúng vừa thể hiện tình cảm sâu lắng với quê hương, vừa tôn vinh và bảo tồn giá trị của tiếng Việt. Tôi cho rằng ý kiến này đánh đốn rất đúng về tầm quan trọng của việc gìn giữ và phát triển văn hóa và ngôn ngữ trong thơ ca. Tình yêu quê hương và tình yêu tiếng Việt là hai yếu tố không thể tách rời trong việc xây dựng và phát triển một nền văn hóa và nghệ thuật độc đáo và đầy phong cách.

Đăng ký ngay với VUIHOC để sở hữu cuốn sổ tay Ngữ Văn tổng hợp kiến thức và các tips học văn cực kỳ thú vị!

3. Soạn bài Một thời đại trong thi ca sách Cánh diều 

3.1 Phần chuẩn bị

* Phong trào thơ mới thường được chia thành ba giai đoạn chính:

- Giai đoạn 1932 – 1935: Đây là thời kỳ chớm nở của phong trào thơ mới. Giai đoạn này chứng kiến sự đấu tranh gay gắt giữa hai trường phái thơ cũ và thơ mới. Ở thời kỳ này, Thế Lữ là nhà thơ tiêu biểu nhất của Phong trào thơ mới với tập Mấy vần thơ (1935). Ngoài ra còn có sự góp mặt các nhà thơ Lưu Trọng Lư, Nguyễn Nhược Pháp, Vũ Đình Liên.

- Giai đoạn 1936 - 1939: Đây là giai đoạn phát triển cực thịnh của phong trào thơ mới. Giai đoạn này chứng kiến sự chiếm ưu thế tuyệt đối của thơ mới so với thơ cũ trên nhiều bình diện, nhất là về mặt thể loại thơ. Giai đoạn này xuất hiện nhiều tên tuổi lớn như Xuân Diệu (tập Thơ thơ -1938), Hàn Mặc Tử (Gái quê -1936, Đau thương - 1937), Chế Lan Viên (Điêu tàn - 1937), Bích Khuê (Tinh huyết - 1939), … Trong số các nhà thơ này, nổi bật hơn cả là Xuân Diệu. Ông được coi là nhà thơ “mới nhất trong các nhà thơ mới”. 

→ Phong trào thơ mới nở rộ với hàng loạt các cây bút có tên tuổi xuất hiện, thể hiện rõ tài năng nghệ thuật đặc sắc cũng như sự lên ngôi của cái tôi cá nhân sau suốt một thời gian dài bị kìm hãm. Điều này giúp các nhà thơ được bộc lộ cảm xúc của mình một cách trọn vẹn.

- Giai đoạn 1940 - 1945: Ở thời kỳ này, thơ mới xuất hiện nhiều hướng phát triển khác nhau. Về cơ bản, chúng vẫn giữ được nét đặc trưng của thơ mới đó là thể hiện cái tôi cá nhân. Tuy nhiên, sự thiếu vắng những tác phẩm đột phá và ấn tượng khiến phong trào thơ mới bắt đầu có sự thoái trào.

3.2 Đọc hiểu

Câu 1: Tác giả đưa ra tiêu chí nào để so sánh giữa thơ cũ và thơ mới?

Tiêu chí đề ra để phân biệt thơ mới và thơ cũ không phải lúc nào cũng được đề cập rõ ràng và chính xác, bởi vì mỗi thời đại mang theo một sự phát triển và biến đổi của thơ ca, điều này dẫn đến việc có sự trùng hợp và giao thoa giữa các trường phái thơ. Các nhà thơ và tác phẩm của họ thường không hoàn toàn rơi vào một trong hai hệ thống "thơ mới" hoặc "thơ cũ".

Thực tế, thơ mới và thơ cũ thường tồn tại song song, tương tác và thậm chí là học hỏi lẫn nhau. Mỗi thời đại và mỗi nhà thơ đều mang theo sự đổi mới và sáng tạo riêng của họ. Điều này tạo ra một đa dạng phong phú trong thơ ca, với những biểu hiện khác nhau của cái tôi và cái ta trong từng tác phẩm. Do đó, cách duy nhất để thấu hiểu sâu sắc tinh thần thơ là phải đặt chúng vào bối cảnh lịch sử, thời đại và văn hóa, so sánh và đối chiếu chúng với nhau, và từ đó, ta có thể nhận biết và đánh giá sự khác biệt giữa thơ mới và thơ cũ một cách tổng thể và đúng đắn.

Câu 2: Câu văn nào cho thấy luận điểm khái quát của Hoài Thanh?

Câu văn cho thấy luận điểm khái quát của Hoài Thanh: Các thời đại vẫn liên tiếp cùng nhau và muốn rõ đặc sắc mỗi thời phải nhìn vào đại thể.

Câu văn này thể hiện một góc nhìn tổng quan và trường tồn trong cuộc đối diện của thơ mới và thơ cũ. Nó cho thấy rằng việc hiểu rõ sự phát triển của thơ không thể bị hạn chế bởi việc tạo ra các hệ thống tiêu chí cố định để đánh giá mỗi tác phẩm. Thay vào đó, Hoài Thanh nêu ra một quan điểm phổ quát: Các thời đại trong văn học luôn nối tiếp nhau và để hiểu rõ điểm mạnh và đặc sắc của mỗi thời đại, chúng ta cần nhìn vào bức tranh lớn hơn. Việc này thể hiện tôn trọng đối với sự đa dạng và sự biến đổi trong văn hóa và nghệ thuật.

Thay vì cố gắng đánh giá mọi tác phẩm dựa trên một bộ tiêu chí cụ thể, chúng ta cần nhận thức về sự tiến hóa của nghệ thuật và cách mỗi thời đại đóng góp vào sự phong phú và đa dạng của văn hóa. Tư duy này cũng đồng nghĩa với việc không cố gắng xác định một thời đại nào đó là tốt hơn hoặc quan trọng hơn. Thay vào đó, nó khuyến khích ta xem xét cách mỗi thời kỳ nói lên những câu chuyện và giá trị riêng của nó thông qua nghệ thuật. Điều này giúp ta hiểu rằng mỗi thời đại đều đóng góp một phần quan trọng vào sự phát triển và giàu có của văn hóa và nghệ thuật.

Câu 3: Vì sao khi xuất hiện trên thi đàn Việt Nam, chữ tôi lại "bỡ ngỡ" và "như lạc loài"?

Khi chữ "tôi" xuất hiện trong thơ và văn của Việt Nam, nó thường được miêu tả là "bỡ ngỡ" và "như lạc loài" vì trong văn hóa truyền thống của Việt Nam, sự cá nhân, tập trung vào bản thân, và bày tỏ cảm xúc cá nhân thường không được coi trọng, và thậm chí là không phù hợp. Trong văn học và thơ cổ điển Việt Nam, tập trung vào cộng đồng, quê hương, gia đình và các giá trị tập thể thường được ưu tiên hơn là tập trung vào bản thân. Việc sử dụng chữ "tôi" thường đi kèm với việc bày tỏ cảm xúc cá nhân và tìm kiếm sự thể hiện cá nhân, điều mà trước đây không phổ biến trong văn học và thơ truyền thống Việt Nam.

Sự thay đổi này đánh dấu sự xuất hiện của phong trào Thơ mới, trong đó các nhà thơ đã bắt đầu tự do hơn trong việc bày tỏ cảm xúc, quan điểm cá nhân và tập trung vào "tôi" của họ. Nhưng việc này cũng đã đối mặt với sự phản đối và tranh cãi từ một phần trong xã hội. Trong bối cảnh xã hội đang trải qua nhiều thay đổi lớn, sự thay đổi về tư duy và cách tiếp cận văn hóa cũng đem lại sự "bỡ ngỡ" và mâu thuẫn. Tuy nhiên, phong trào Thơ mới đã thể hiện sự tự do trong sáng tạo và bày tỏ cá nhân, giúp làm thay đổi diện mạo của văn học Việt Nam và đưa nó tiến vào một hướng mới.

Câu 4: Đoạn văn cho biết điều gì về đặc điểm hồn thơ của các nhà thơ mới?

Hồn thơ của các nhà thơ mới tràn đầy sự đam mê và sự tìm kiếm. Họ như những người phiêu lưu trên biển trường tình, tự do khám phá mọi khía cạnh của cuộc sống và tâm hồn. Họ điên cuồng trong tình yêu, tôn vinh sự đẹp đẽ và những cảm xúc mãnh liệt. Nhưng qua thời gian, sự cuồng nhiệt dường như đã phai mờ, để lại sự tỉnh táo, cảm nhận sâu sắc hơn về cuộc sống và tình yêu. Mặc dù tình yêu không còn bền vững nhưng đó vẫn là nguồn cảm hứng cho họ, và họ trở về với tâm hồn, khám phá sự tương tác giữa quê hương và bản thân mình. Những nhà thơ mới thể hiện sự độc lập và tự do trong việc sáng tạo nghệ thuật. Họ không sợ thách thức, không bị ràng buộc bởi các quy tắc cũ, mà tìm kiếm những phong cách mới, tiếp cận đầy sáng tạo. Họ dám nghĩ, dám thử nghiệm, và dám đánh đổ những biên giới cũ trong thơ ca.

Câu 5: Các nhà thơ lãng mạn đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách nào?

Các nhà thơ lãng mạn đã giải tỏa bi kịch đời mình bằng cách đưa bi kịch ấy gửi cả vào tiếng Việt, biến chúng thành những tác phẩm thơ ca đầy màu sắc và tinh thần. Trong quá trình này, họ đã sử dụng ngôn ngữ và hình ảnh phong phú để tạo ra những tác phẩm thơ đầy cảm xúc và tâm trạng. Các nhà thơ lãng mạn đã thể hiện mối quan tâm sâu sắc đối với cuộc sống, tình yêu, và những thách thức của thời đại bằng cách sáng tạo trong từng câu thơ, tạo nên một nguồn cảm hứng cho người đọc và thể hiện sự đánh thức và tự do trong sáng tạo thơ ca của họ. Nhờ vào việc biểu đạt một cách tinh tế qua ngôn ngữ thơ, các nhà thơ này đã giúp người đọc thấu hiểu và cảm nhận sâu sắc hơn về những khía cạnh của cuộc sống và tình yêu. Điều này đã tạo nên sự kết nối mạnh mẽ giữa tác giả và người đọc, giúp giải tỏa bi kịch đời mình và tạo ra những tác phẩm thơ vĩ đại trong nền văn học Việt Nam.

3.3 Trả lời câu hỏi cuối bài 

Câu 1 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều 

Nhan đề "Một Thời Đại Trong Thi Ca" trong ngữ cảnh của tác phẩm của Hoài Thanh thường được hiểu là mô tả một giai đoạn đặc biệt trong lịch sử và phát triển của thi ca Việt Nam. Đây là giai đoạn khi thơ mới nảy nở và phát triển mạnh mẽ, đánh dấu sự thay đổi lớn về nội dung, hình thức, và tư duy trong thơ ca của Việt Nam. Trong tác phẩm này, "một thời đại" thường được hiểu là giai đoạn từ cuối thế kỷ 19 đến giữa thế kỷ 20, khi các nhà thơ mới nổi lên và bắt đầu thể hiện tư duy, cảm xúc, và ngôn ngữ thơ mới mẻ, độc đáo. Đây là thời kỳ thơ mới đánh bại thơ cũ và bắt đầu thể hiện một tinh thần sáng tạo mới mẻ trong thơ ca Việt Nam. Tuy nhiên, nhan đề này cũng có thể được hiểu một cách rộng hơn, thể hiện sự thay đổi và phát triển liên tục trong thi ca qua các giai đoạn lịch sử khác nhau. Điều này đánh dấu sự tiến bộ và đa dạng trong nghệ thuật thơ ca, thể hiện sự phản ánh của các thế hệ thi sĩ đối với xã hội, văn hóa và tình yêu quê hương.

Câu 2 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều

Trong phần 1 của văn bản, để thuyết phục người đọc về sự chiến thắng của thơ mới đối với thơ cũ, tác giả đã mở một cuộc so sánh chi tiết và sâu rộng giữa hai dòng thơ này. Từng bài thơ, từng nhà thơ trong phong trào thơ mới được đánh giá, phân tích, và đặt vào bối cảnh của thời kỳ, nền văn hóa, và tâm trạng của xã hội Việt Nam tại thời điểm đó.Tác giả sử dụng ví dụ cụ thể từ các bài thơ để minh họa sự tiến bộ và sáng tạo của thơ mới so với thơ cũ. Thông qua việc phân tích các câu thơ, cách diễn đạt ý, và tầm ảnh hưởng của từng nhà thơ, tác giả tạo ra một hình ảnh rõ ràng về sự thay đổi trong cách thể hiện và nội dung của thơ qua thời kỳ chuyển mạch từ thơ cổ điển sang thơ mới. Bằng cách này, tác giả đã thực hiện một cuộc tranh luận logic và lôi kéo cảm xúc của người đọc bằng cách trình bày sự phát triển đáng kể của thơ mới và tầm quan trọng của nó trong việc thể hiện tinh thần và bản sắc của thời đại. Cuối cùng, thông qua sự so sánh rõ ràng này, tác giả đã hình dung một hình ảnh rõ nét về tầm quan trọng của thơ mới và cách nó đã làm thay đổi thế giới của văn thơ ở Việt Nam.

Câu 3 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều

Luận điểm Lý lẽ Dẫn chứng
Cứ đại thể thì tất cả tinh thần thời xưa – hay thơ cũ – và thời mới nay – hay thơ mới – có thể gom lại trong hai chữ tôi và ta.

Bởi vậy cho nên, khi chữ tôi, với các nghĩa tuyệt đối của nó, xuất hiện giữa thi đàn Việt Nam, bao nhiêu con mắt nhìn nó một cách khó chịu.

- Thi nhân ta cơ hồ đã mất hết cái cốt cách hiện ngang ngày trước.

- Đời chúng ta đã nằm trong vòng chữ tôi.

- Qua các câu thơ của Xuân Diệu:

"Người giai nhân: bến đợi dưới cây già;

Tình du khách: thuyền qua không buộc chặt."

- Hay qua câu thơ của một nhà thơ cũ:

"Ô hay! Cảnh cũng ưa người nhỉ!

Ai thấy ai mà chẳng ngẩn ngơ?

- Thơ Lý Thái Bạch: "Nỗi đời cay cực đang giơ vuốt,

Cơm áo không đùa với khách thơ"

- Đặc điểm thơ của các nhà thơ như Xuân Diệu, Thế Lữ, Hàn Mặc Tử...

 

Câu 4 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều

Tác giả đặt ra một luận điểm cung cấp cái nhìn khái quát về nội dung này: Bi kịch không chỉ xuất hiện và ảnh hưởng đến cuộc sống của cá nhân, mà nó còn chảy vào sâu trong dòng chảy của thơ ca và xã hội trong thời kỳ đó. Bi kịch này không chỉ đơn thuần là một trải nghiệm cá nhân mà còn phản ánh một phần của tâm hồn và tình cảm quê hương, xã hội, và thời cuộc.

Nó là một phần không thể thiếu trong việc hiểu rõ sự thay đổi và phát triển của văn hóa và thi ca trong một thời đại nào đó. Nhưng điều đáng chú ý ở đây là bi kịch này không chỉ là về cuộc sống cá nhân, mà còn là về tất cả mọi người và xã hội nơi họ sống. Nó là một phần không thể tách rời của sự phát triển của thi ca và tư duy văn hóa trong giai đoạn đó, và nó thể hiện qua cảm xúc, tình cảm, và tâm trạng trong thơ của các nhà thơ thời kỳ đó.

Câu 5 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều

Đoạn văn trên sử dụng một sự kết hợp của các phương thức biểu đạt: Kết hợp Nghị luận và biểu cảm. Các kết hợp này giúp tạo nên ấn tượng mạnh ở người đọc. Qua phương thức biểu đạt, người viết có thể bày tỏ, thể hiện tình cảm, tâm tư và suy nghĩ của mình với người đọc tác phẩm. Đây là một sự kết hợp phong phú giữa ngôn ngữ mô tả cảm xúc và hình tượng thơ để thể hiện tâm trạng và trải nghiệm của người viết. 

Tác dụng của sự kết hợp này là làm nổi bật sự biến đổi và sự thất vọng trong cuộc sống và tâm hồn của tác giả Hoài Thanh. Nó cho thấy rằng cuộc hành trình qua nhiều trạng thái tình cảm khác nhau đã thay đổi tâm trạng của người viết, từ niềm phấn khích đến sự cô đơn và buồn bã. Sự kết hợp này cũng giúp thể hiện sự phức tạp của tâm trạng con người và sự biến thiên của cảm xúc trong cuộc sống.

Câu 6 trang 132 sách văn 11/2 cánh diều

- Một số điểm đặc trưng trong ngôn ngữ văn bản nghị luận văn học (phê bình văn học) của Hoài Thanh có thể kể ra như:

  • Sử dụng nhiều từ ngữ giàu hình ảnh

  • Đưa ra nhiều dẫn chứng cụ thể

  • Câu văn và hình thức văn tự do, độ dài câu linh hoạt không bị gò bó

  • Thể hiện cảm xúc của người viết rất rõ nét

- Phong trào Thơ mới lãng mạn 1932 - 1945: 

Có thể thấy, thời kỳ 1932-1945 là giai đoạn phát triển rực rỡ của thơ mới, hay chính xác hơn là “tinh thần thơ mới”. Thời kỳ này chứng kiến sự ra đời của rất nhiều những nhà thơ xuất sắc, tạo nên những vần thơ đi vào lòng người. Đặc biệt hơn, mỗi nhà thơ lại có một cái “tôi” riêng không ai giống ai. Chính cái sự đa dạng này khiến phong trào thơ mới trở nên hấp dẫn và lãng mạn hơn bao giờ hết. Có thể nói, Thơ mới là một bước phát triển quan trọng trong tiến trình hiện đại hóa nền văn học nước nhà những năm đầu thế kỉ XX với những cuộc cách tân nghệ thuật sâu sắc.

 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Qua bài viết này, VUIHOC đã cung cấp cho các em chi tiết soạn bài một thời đại trong thi ca - Văn 11 Chân trời sáng tạo & Cánh diều. Hi vọng rằng những gợi ý, hướng dẫn của bài soạn có thể giúp các em nắm được những ý chính cũng như trau dồi được nội dung kiến thức mà tác phẩm tuyệt vời này đem lại. Để học nhiều hơn các kiến thức của những môn học khác thì các em hãy nhanh tay truy cập vào website vuihoc.vn hoặc đăng ký khóa học với các thầy cô giáo của VUIHOC ngay bây giờ nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 11
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}

VNESCHOOL là nền tảng cung cấp các khoá học online, chất lượng cao cho học sinh tiểu học và THCS. Chúng tôi cam kết mang tới cho học sinh trải nghiệm học đầy hào hứng và hiệu quả, giúp học sinh hiểu sâu, nắm chắc chương trình học trên lớp và đạt điểm cao trong các kì thi. Đồng thời chúng tôi cung cấp công cụ báo cáo cá nhân hoá nhằm hỗ trợ phụ huynh theo dõi sát sao và hiểu được năng lực của con trong quá trình học tập.


Địa chỉ: Tầng 1, Toà nhà Rivera Park , số 69 Vũ Trọng Phụng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Hotline: 0914890900