img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng) - chân trời sáng tạo

Tác giả Hoàng Uyên 14:38 30/11/2023 19,018 Tag Lớp 11

Khi viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng), các em cần phải tìm hiểu thật kỹ tác phẩm ấy để có thể hoàn thành bài viết một cách tốt nhất. Để làm được điều này, các em hãy tham khảo bài viết dưới đây của VUIHOC để có thể hiểu được cách viết và áp dụng vào bài của mình.

Soạn bài viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng) - chân trời sáng tạo
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1.  Soạn bài viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng): Ngữ liệu tham khảo 1

1.1 Câu 1 trang 70 SGK văn 11/2 chân trời sáng tạo 

Cách mở bài của văn bản phía trên có gì đặc sắc?

Phương pháp giải:

Từ văn bản ở phần ngữ liệu tham khảo, nhận xét về cách mở bài trong văn bản.

Lời giải chi tiết:

Cách mở bài trong văn bản phía trên đặc sắc ở cái cách dẫn dắt vào bài viết bởi câu chuyện thực tế. Cách mở bài ấy giúp thu hút được sự chú ý của người đọc và đưa họ vào một trạng thái tập trung và luôn sẵn sàng tiếp thu những thông tin tiếp theo. Hơn nữa, câu chuyện thực tế có thể làm tăng tính chân thực cũng như sinh động cho bài viết và còn giúp người đọc đồng cảm với những tình huống hoặc vấn đề đang được đề cập, tạo ra một sự kết nối giữa người đọc với nội dung của bài viết.

1.2 Câu 2  trang 70 SGK văn 11/2 chân trời sáng tạo

Những luận điểm có trong văn bản bàn về vấn đề gì? Những câu nào là câu chủ đề cho mỗi luận điểm?

Phương pháp giải:

Khai thác rõ ràng nội dung của văn bản, dựa vào những chi tiết và nội dung nổi bật để có thể chỉ ra vấn đề mà những luận điểm đã đề cập. Đồng thời chỉ ra những câu chủ đề cho các luận điểm.

Lời giải chi tiết:

- Những luận điểm trong văn bản bàn về: các thông điệp sâu sắc trong mối quan hệ giữa con người với tự nhiên, về giá trị tự thân của những cái đẹp thông qua tác phẩm Con chào mào.

- Câu chủ đề cho mỗi luận điểm đó là:

+ Luận điểm 1 với câu chủ đề là “Về nội dung, bài thơ gợi ra những thông điệp đa nghĩa”

+ Luận điểm 2 với câu chủ đề là “Về hình thức nghệ thuật, bài thơ có nhiều nét đặc sắc”

1.3 Câu 3  trang 70 SGK văn 11/2 chân trời sáng tạo

Tác giả đã sử dụng những lý lẽ và bằng chứng nào để làm sáng tỏ cho luận điểm?

Phương pháp giải:

Khai thác nội dung trong văn bản, dựa vào những chi tiết và nội dung nổi bật ấy để chỉ ra những lí lẽ và bằng chứng đã được tác giả đưa ra nhằm làm sáng tỏ các luận điểm.

Lời giải chi tiết:

Tìm hiểu xem tác giả đã sử dụng những lí lẽ và bằng chứng gì để làm sáng tỏ luận điểm

Trả lời:

- Để làm sáng tỏ cho luận điểm thứ nhất, tác giả đã sử dụng hai lý lẽ:

+  Câu chuyện về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên;

+  Giúp người đọc phân biệt được giữa cái đẹp với cái có ích.

- Để làm sáng tỏ cho luận điểm thứ hai, tác giả đã sử dụng hai lý lẽ:

+  Hình ảnh tượng trưng và giàu ý nghĩa;

+  Ngôn ngữ thơ giản dị, gần gũi những vẫn mang sức gợi cảm, kết hợp giữa các phương thức biểu đạt tự sự, miêu tả và biểu cảm.

- Để tăng sức thuyết phục cho các lý lẽ, tác giả đã sử dụng những bằng chứng từ bài thơ như:  khung gió, khung nắng, nhành cây xanh; con chào mào đầm trắng mũ đỏ; tôi ôm khung gió, khung nắng,…

>> Xem thêm: Soạn văn 11 Chân trời sáng tạo

2. Soạn bài viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng): Ngữ liệu tham khảo 2

2.1 Câu 1 trang 71 SGK văn 11/2 chân trời sáng tạo

Nội dung của luận điểm thứ nhất và thứ hai là gì?

Phương pháp giải:

Khai thác nội dung của văn bản ngữ liệu tham khảo sau đó dựa vào phần chú thích bên cạnh văn bản để tìm ra được nội dung của các luận điểm

Lời giải chi tiết:

- Nội dung của luận điểm thứ nhất đó là: Những giá trị và đóng góp của bức tranh Thiếu nữ chơi đàn nguyệt

- Nội dung của luận điểm thứ hai đó là: Giá trị nghệ thuật của bức tranh Thiếu nữ chơi đàn nguyệt

2.2 Câu 2 trang 71 SGK văn 11/2 chân trời sáng tạo

Tác giả đã sử dụng những lý lẽ và bằng chứng nào nhằm làm sáng tỏ luận điểm

Phương pháp giải:

Khai thác vào nội dung của văn bản, dựa vào những chi tiết và nội dung nổi bật để chỉ ra được những lý lẽ và bằng chứng được tác giả đưa ra nhằm làm sáng tỏ các luận điểm.

Lời giải chi tiết:

- Để làm sáng tỏ cho những luận điểm, tác giả đã sử dụng những lý lẽ và bằng chứng cụ thể như sau:

+ “Thiếu nữ chơi đàn hướng ánh nhìn khỏi khán giả nhưng ánh mắt của cả thiếu nữ thứ hai trong bức tranh lẫn người xem đều hướng về phía người chơi đàn” (đây là lí lẽ)

+ “hướng nhìn linh hoạt này cũng như các góc được tạo thành từ cơ thể họ…. do di chuyển quanh bức tranh” (đây là bằng chứng)

+ “ánh mắt trầm ngâm và có phần xa cách….đóng vai trò như một phương tiện giao tiếp đầy lý thú giữa người xem và tác phẩm” (đây là bằng chứng)

+ “phông nền màu xanh ngọc lục bảo dịu nhẹ và những bông hoa trắng cắm trong bình”

2.3 Câu 3 trang 71 SGK văn 11/2 chân trời sáng tạo

Cách kết luận của bài viết ấy có điểm gì khác với cách kết luận trong bài viết “Con chào mào” một thông điệp đa nghĩa?

Phương pháp giải:

Theo dõi cả hai kết luận ở phần văn bản ngữ liệu tham khảo 1 và 2, từ đó có thể nhìn ra được điểm khác biệt sau đó đưa ra những nhận xét của bản thân.

Lời giải chi tiết:

- Cách kết luận trong bài viết này khác với cách kết luận trong bài viết “Con chào mào” một thông điệp đa nghĩa?: Bài viết này kết luận về giá trị và đóng góp của tác phẩm trong khi đso bài viết “Con chào mào” một thông điệp đa nghĩa? lại kết luận bởi việc khẳng định lại giá trị nội dung lẫn nghệ thuật của tác phẩm.

- Cách kết luận bằng những giá trị và đóng góp của tác phẩm chính là cách kết luận tập trung vào việc đánh giá toàn diện tác phẩm dựa trên nhiều tiêu chí nghệ thuật và xã hội nhằm nhấn mạnh về ý nghĩa và tầm quan trọng của tác phẩm đối với nền văn hóa, xã hội và con người. Trong khi đấy, cách kết luận bởi việc khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm lại thường tập trung vào việc phân tích nội dung và cấu trúc của tác phẩm nhằm khẳng định giá trị nghệ thuật của nó.

→ Cách kết luận bằng cách nêu lên giá trị và đóng góp của tác phẩm nhằm nhấn mạnh vào ảnh hưởng của nó tới xã hội và đánh giá toàn diện được tác phẩm, trong khi cách kết luận bởi việc khẳng định lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm lại tập trung vào những đặc điểm về nghệ thuật của tác phẩm nhằm xác định giá trị của nó cho văn học và nghệ thuật.

Lộ trình khóa học PAS THPT sẽ được thiết kế riêng cho từng bạn học sinh, phù hợp với khả năng của các em cũng như giúp các em từng bước đạt điểm cao trong mọi kỳ thi chung và riêng.

 

3. Soạn bài viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng): Thực hành viết

3.1 Bài tham khảo mẫu 1:

Khi nhắc tới nhà thơ, nhà văn hóa lớn Nguyễn Du ta sẽ không khỏi choáng ngợp bởi tài năng xuất chúng của ông đã đóng góp cho nhân dân, cho đất nước giữa giai đoạn lịch sử đầy rẫy những biến động, ông còn được ca ngợi và được người đời gọi là “đại thi hào của dân tộc’. Phải kể tới những tác phẩm mang danh của ông, một trong số ấy được xem là một kiệt tác văn học mà ai ai cũng biết tên, tạo ra một dấu ấn, một nét rất riêng biệt và nổi trội cho nền văn học trung đại Việt Nam đó không thể nào khác chính là “Truyện Kiều”.

Nguồn gốc của bộ truyện thơ kinh điển này bắt nguồn từ cảm hứng dựa trên tiểu thuyết văn xuôi Kim Vân Kiều truyện lừng lẫy của tác giả Thanh Tâm tài nhân- Trung Quốc. “Truyện Kiều” được bắt đầu viết vào đầu thế kỉ XIX (1805 –1809), bộ truyện đã được viết toàn bộ theo thể thơ lục bát và bằng chữ Nôm một cách ấn tượng, bao gồm 3254 câu, đương nhiên mang những dấu ấn rất riêng biệt khác xa với bản gốc vì những sáng tạo lớn về mặt nội dung và nghệ thuật của tác giả này. Truyện Kiều mang tên gốc là “Đoạn trường tân thanh” có nghĩa là “tiếng kêu mới về nỗi đau lòng đứt ruột", hiện lên trong mỗi chúng ta sự tò mò và xót xa cho nhan đề này, cho toàn bộ cả câu truyện và cho chính những nhân vật trong đó. Mang đậm hồn phách dân tộc thời đó, những bất cập rất nhức nhối trong cái xã hội vô cùng đen tối ấy và trên hết thảy tác giả đã hòa nhập vào nhân vật nữ chính để mang đến sự cảm thương sâu sắc cho cả một thế hệ những người phụ nữ trong cái xã hội đầy những bất công, họ đã bị chà đạp, cùng những ước mơ và khát vọng chính đáng trong sự suy nghĩ mới là những thông điệp sâu sắc mà tác giả muốn gửi gắm thông qua câu chuyện.

Ta hoàn toàn có thể tóm tắt được tác phẩm để dễ dàng tìm hiểu cho sát ý với tác giả, chia truyện ra làm 3 phần rõ ràng như sau: phần thứ nhất chính là phần miêu tả sự gặp gỡ và đính ước, phần thứ hai nói về cảnh gia biến và lưu lạc, còn phần thứ ba chính là sự đoàn tụ cho các nhân vật, cho câu truyện một cái kết có hậu nhất mà tác giả có khả năng làm. Một cuộc hành trình dài đằng đẵng có điểm đầu và điểm kết thúc, có cả những niềm vui lẫn bất hạnh của nhân vật chính, nó cứ nối tiếp nhau thông qua từng con chữ để rồi ta có thể thấm dần, ta thấu hiểu được nên không thể rời mắt.

Truyện kể về một cô gái tên là Thúy Kiều, những nhân vật phụ sẽ có mặt vào từng giai đoạn, mỗi bước đi trong cuộc đời Kiều như Vương ông, Vương bà là bố mẹ của nàng, Thuý Vân cô em gái của Vương Thuý Kiều, Kim Trọng là ý trung nhân của nàng, Mã giám sinh là người mua Kiều từ Tú Bà, Từ Hải là một người anh hùng đã cứu lấy cuộc đời Kiều, đem tới cho Nàng những niềm tin và hy vọng mới vào cuộc đời,…, hay những hoạt cảnh hết sức đẹp đẽ và hư ảo đã được tác giả sử dụng bằng những bút pháp nghệ thuật đặc sắc và cái nhìn phóng khoáng có thể sáng sủa hay u ám của người thi sĩ, chỉ khiến cho ta nhấn mạnh vào sự tập trung đến cách thể hiện, cách đối mặt và tâm trạng giữa chuỗi cuộc đời đầy bấp bênh của nhân vật nữ chính đồng thời cũng xót xa trước những tai ương mà Kiều đã gặp phải do vẻ đẹp cũng như tài năng của nàng mang lại. Ở Kiều là mọi thứ có khả năng biểu lộ dường như đạt tới độ hoàn mỹ. Bắt đầu là những đoạn văn tả về hai chị em, tiếp đến là những dòng thơ khi Kiều thăm mộ Đạm Tiên, phân đoạn Kiều đến gặp Kim Trọng cũng được tác giả đặc biệt chú tâm. Rồi là sự bày tỏ những cảm xúc và thái độ đúng mực, ấn tượng của nàng về quyết định sẽ tự bán mình để chuộc cha, và rồi hàng tấn bi kịch dành cho nàng cũng khiến cho ta phải day dứt và suy nghĩ đe dọa, chà đạp lên giá trị bản thân Nàng từ đoạn Kiều rơi vào tay của Mã giám sinh và Tú bà, Kiều bị mắc lừa Sở Khanh. Và tác giả đã viết những dòng tâm sự hết sức chân thực của nàng trước sự cứu thoát dù rất nhỏ nhoi chính là Kiều được gặp Thúc sinh, đoạn Kiều và Hoạn thư lại là nỗi cay đắng với Nàng, rồi cuối cùng mở ra một hướng đi mới cho cuộc đời của Kiều chính là lúc Kiều gặp Từ Hải. Rồi cũng đến cái ngày mà ai đó đều mong chờ và bất ngờ là đoạn Kiều báo ân trả oán, Kim Trọng đi tìm Thuý Kiều và cuối cùng kết thúc có hậu đã tới “Thuý Kiều đã trở về đoàn viên với gia đình sau mười năm lưu lạc, và làm bạn tương giao tình nghĩa với Kim Trọng”.

Những hình thức nghệ thuật đã được tác giả hết sức chú trọng trong Truyện Kiều, thể hiện sự thành công bậc thầy khi đã hội tụ đầy đủ những biện pháp nghệ thuật vô cùng tài tình của ngôn ngữ dân gian đã đạt tới đỉnh cao, của giọng điệu thơ lục bát để dễ dàng in đậm trong lòng của người đọc, những biện pháp tu từ được sử dụng một cách linh hoạt,... từ sự miêu tả thiên nhiên cho đến con người bằng sự quan sát và nhập tâm vào nhân vật rất sâu sắc.

Và còn những giá trị mà tác phẩm đã đem lại thì sao? Nó có một sức ảnh hưởng cũng không hề nhỏ đối với xã hội, như PGS. Nguyễn Thạch Giang đã từng phát biểu khi nghiên cứu về kiệt tác quý báu bậc nhất này:“… Truyện Kiều đã phản ảnh sinh động xã hội thời đại của tác giả, khi mà chế độ phong kiến đang suy thoái đã bộc lộ đầy đủ tính chất mục nát, vô nhân, và các tầng lớp nhân dân đã bị dồn đến bước đường cùng…Khi viết, tuy có dựa vào Kim Vân Kiều truyện, nhưng với kỳ công tái tạo, Truyện Kiều của nhà thơ đã trở thành viên ngọc vô giá của thể loại truyện thơ nói riêng và của nền văn học dân tộc Việt nói chung…..”

Tác phẩm rất giàu giá trị hiện thực vì trong đó sẽ phơi bày rõ nét nhất về hiện thực xã hội phong kiến vô cùng bất công, là sự phản ánh nỗi khổ đau và bất hạnh của con người, đặc biệt là những người phụ nữ. Bên cạnh đó, hoàn toàn có thể nói rằng giá trị chính trong “Truyện Kiều” chính là giá trị nhân đạo thấm đẫm tình yêu thương, mới mẻ lại vẫn giữ được những nét truyền thống do tác giả biết trân trọng vẻ đẹp giá trị trong con người cao hơn thiên nhiên, thông qua nhân vật Kiều, tác giả còn rất thương xót cho cả một kiếp người đã bị chà đạp, khinh rẻ, đồng thời tố cáo và phê phán hết thảy những thế lực chà đạp lên con người, ông đã thể hiện được ước mơ hết sức cao cả của cả một thế hệ đó là ước mơ một cuộc sống có sự công bằng, cái thiện sẽ được khuyến khích còn cái ác phải bị trừng phạt.

“Truyện Kiều” dù phải trải qua hàng trăm năm lưu truyền vô cùng rộng rãi và có sức chinh phục lớn đối với tất cả tầng lớp độc giả, vì vậy  “Truyện Kiều” đã được giới thiệu rộng rãi ra khắp các nước trên thế giới, dịch ra nhiều thứ tiếng khác nhau để tiện nghiên cứu về cái đẹp, cái nét riêng biệt, quý đại diện của nền văn học nước Việt, cũng để ta có thêm niềm tự hào về sự đóng góp từ một nhân vật vô cùng xuất chúng chính là tác giả lớn Nguyễn Du.

Sổ tay Ngữ Văn tổng hợp các tips học văn hiệu quả giá chỉ bằng một cốc trà sữa. Nhanh tay đặt hàng thôi bạn ơi!!!

3.2 Bài tham khảo số 2:

Hồ Xuân Hương là một trong những nữ sĩ tài ba của nền văn học nước ta vào nửa cuối thể kỷ XVIII và đầu thế kỷ XIX. Dù là người con gái rất tài danh nhưng cuộc đời lại truân chuyên, hồng nhan mà bạc mệnh như bao nhiêu người phụ nữ sống dưới thời xã hội phong kiến đầy những bất công. Bà đã có nhiều lần mang cái thân phận nhỏ bé đó của người phụ nữ sống dưới chế độ cũ vào trong trang thơ của mình. Tự tình là một trong những sáng tác rất hay của Hồ Xuân Hương khi thể hiện được nỗi đau đớn và buồn tủi trước những tình cảnh éo le của bản thân, đồng thời thể hiện nỗi khát khao mãnh liệt về hạnh phúc của cuộc đời.

Bài thơ được thể hiện thông qua thể thơ thất ngôn bát cú đường luật. Mở đầu bài thơ là hai câu đề giới thiệu về không gian và thời gian của nhân vật trữ tình:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

Trơ cái hồng nhan với nước non”

Nhà thơ đã mở đầu bài thơ với mốc thời gian là một đêm khuya vắng. Người ta thường nói rằng “đêm khuya” thường là lúc mà con người ta bắt đầu suy tư và đầy tâm trạng. Và ở đây với Hồ Xuân Hương cũng như thế. Thời điểm rất thích hợp với những tâm sự đầy rẫy trong lòng bà. Âm thanh “văng vẳng” từ tiếng trống canh dồn cho người đọc thấy được đó là những âm thanh ở xa vọng lại cứ văng vẳng mãi bên tai người thi sĩ. Và hẳn là đêm ấy đã khuya lắm rồi, yên tĩnh lắm mới có thể cảm nhận được tiếng trống ở xa vọng lại như thế. Hai từ “hồng nhan” kết hợp cùng với tính từ “trơ” được đảo lên phía đầu câu thơ như muốn nhấn mạnh về sự buồn tủi và cô đơn đến bẽ bàng của người phụ nữ. “Nước non” là một không gian vô cùng rộng lớn bao la, hình ảnh ẩn dụ cho cả một xã hội chất chứa những bất công. Hình ảnh “hồng nhan” thật nhỏ nhoi đó đối lập với sự rộng lớn của “nước non” càng gợi ra sự nhỏ bé và tủi hổ của người phụ nữ trước cuộc sống này. Chỉ có một hồng nhan đương đầu lại với nước non càng khẳng định thêm về sự trống vắng, cô liêu và sự đơn độc trong tâm hồn của người thi sĩ.

Trước không gian buồn vắng ấy, nhà thơ tiếp tục nói lên hoàn cảnh hết sức eo le và nỗi đau cho thân phận của chính mình trong hai câu thực:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”

Không có một ai quan tâm, không có một ai để giãi bày tâm sự, người thi sĩ ấy đã mượn “chén rượu” để giải tỏa nỗi lòng của chính mình. Nhưng dường như càng uống thì lại càng tỉnh, tỉnh rồi lại say. Cụm từ “say lại tỉnh” cho thấy rằng tâm trạng đau đớn và xót xa của Hồ Xuân Hương. Bà uốn say để có thể quên đi những ưu phiền nhưng rồi cứ say xong lại tỉnh, và đã tỉnh lại nghĩ đến những nỗi đau và ray rứt của bản thân. Không chỉ có rượu mà trong câu còn xuất hiện hình ảnh vầng trăng như một người bạn. Nhưng vầng trăng đó cũng không được tròn đầy viên mãn, mà lại được miêu tả là “khuyết chưa tròn”. Bà nhìn lên vầng trăng cũng chỉ thấy hình ảnh một vầng trăng “khuyết”. Đó là hình ảnh ẩn dụ để chỉ sự dang dở trong hạnh phúc của cuộc đời bà. Đúng như Nguyễn Du đãc từng viết “người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”. Khi buồn thì nhìn đâu ta cũng chỉ thấy đó cảnh sầu mà thôi.

Từ những nỗi phẫn uất ở trong lòng, tâm trạng nhà thơ càng thêm dồn nén như muốn tức nước vỡ bờ:

“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám

Đâm toạc chân mây đá mấy hòn”

Nhà thơ nhìn thấy những hình ảnh thiên nhiên nhưng chỉ thấy “đất” “rêu” “mây” “đá”. Cảnh vật thật xơ xác và hoang tàn không có một chút sức sống nào mà chỉ thấy một màu u ám và cứng nhắc. Những động từ mạnh như “xiên ngang”, “đâm toạc” được đảo lên phía đầu câu nhằm nhấn mạnh một sự đấu tranh của thiên nhiên. Sự đối chọi nhỏ bé của “rêu” với mặt đất bao la rộng lớn, của “mấy hòn đá” nhỏ nhoi với “chân mây” rộng mở như hình ảnh ẩn dụ cho sự bức bối, muốn phá phách và muốn vùng lên để phản kháng của người phụ nữ. Đọc tới đây, người đọc có thể nhận thấy được một sự mãnh mẽ muốn đạp lên những bất công ấy để đòi lại công bằng cho thân phận vô cùng bé nhỏ của nhà thơ. Tâm trạng ở những câu thơ này dường như được dâng lên đến cao trào.

Kết lại bài thơ thất ngôn bát cú, thi sĩ đã quay lại với tâm trang chán nản tới ngao ngán, đau khổ trước tình duyên ngang trái và éo le:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại

Mảnh tỉnh san sẻ tí con con”

Từ “ngán” được đặt ở phía đầu câu thơ nhằm nhấn mạnh nỗi chán chường trong lòng của người thi sĩ. Cụm từ “xuân đi” đối lập với cụm “xuân lại lại” thể hiện một sự buồn chán và hết sức tẻ nhạt. Cụm từ “mảnh tình” cho thấy một thứ tình cảm vô cùng nhỏ bé như một “mảnh” có thể đong đếm được. Đã nhỏ bé tới mức có thể đong đếm được lại còn phải đi “san sẻ” cho những người khác từng “tí con con”. Cụm từ “tí con con” càng cho thấy rằng thứ tình cảm ấy đang phải san sẻ ra quá nhỏ bé, nhỏ bé tới mức không còn nhỏ thêm được nữa. Đọc tới đây, người đọc càng hiểu thêm về nỗi niềm buồn đau của nữ sĩ. Điều đó cũng từng được thể hiện ở trong bài thơ khác:

“Chém cha cái kiếp lấy chồng chung

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng”

Tự tình là một bài thơ có thể nói là đặc sắc nhất của nhà thơ Hồ Xuân Hương. Bài thơ đã thể hiện rất sâu sắc nỗi buồn đau, tủi hổ lẫn cô đơn của thân phận người phụ nữ trong tình cảnh éo le về tình duyên. Qua đó cũng thể hiện nỗi niềm khát khao mãnh liệt muốn được vùng lên để vượt khỏi bi kịch của cuộc đời ấy nhưng vẫn chưa tìm ra được lối thoát. Bài thơ điển hình cho nỗi đau chung của những người phụ nữ sinh sống trong xã hội cũ, để lại những ấn tượng sâu sắc trong trái tim độc giả.

3.3 Bài tham khảo số 3:

Khi nói về những tác phẩm hội họa nổi tiếng ở Việt Nam vào thế kỉ XX, không thể không nhắc tới “Thiếu nữ bên hoa huệ” của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Đã 80 năm kể từ ngày tác phẩm ra đời nhưng đây vẫn được coi là một kiệt tác nghệ thuật, mang tới hơi thở mới cho nền mỹ thuật của nước nhà.

Họa sĩ Tô Ngọc Vân sinh ra và lớn lên ở thành phố Hà Nội. Xuất thân từ một gia đình có hoàn cảnh nghèo khó, Tô Ngọc Vân phải nỗ lực hết mình để phát triển niềm đam mê về hội họa. Tô Ngọc Vân luôn khao khát được mang vẻ đẹp đa dạng của đất nước và con người Việt Nam vào trong những bức tranh của mình. Họa sĩ mơ ước rằng “xây dựng một nền hội họa Việt Nam có tính chất dân tộc, phản ứng lại sự lan tràn của hội họa Pháp sang ta và để giành một địa vị mỹ thuật trọng yếu cho dân tộc trên thế giới”.

“Thiếu nữ bên hoa huệ” được hoạ sĩ Tô Ngọc Vân vẽ vào năm 1943 trong lúc ông đang làm công tác giảng dạy ở Trường Cao đẳng Mỹ thuật Đông Dương. Nguyên mẫu của cô gái xuất hiện trong bức tranh là cô Sáu – một người mẫu đã từng xuất hiện trong tranh của rất nhiều họa sĩ nổi tiếng thời bấy giờ bao gồm Trần Văn Cẩn, Nguyễn Gia Trí, Lương Xuân Nhị,…

Bức tranh đã miêu tả được hình ảnh một thiếu nữ mặc tà áo dài trắng, ngồi nghiêng đầu hướng về phía lọ hoa huệ. Theo quan niệm của Cơ đốc giáo, hoa huệ chính là biểu tượng cho sự trong trắng, đức hạnh và thanh cao. Sự nở nộ của những bông hoa ấy, vẻ duyên dáng của người thiếu nữ được kết hợp một cách hài hòa, tạo ra hơi thở vừa truyền thống lại vừa cách tân. Gò má của người con gái phảng phất sắc hồng, đôi mắt thì sâu thăm thẳm như chứa đựng những nỗi suy tư, trầm buồn. Tác phẩm có bố cục rất chặt chẽ. Hình ảnh cô gái kề sát đầu bên bông hoa, một tay thì nâng bông hoa, một tay lại khẽ chạm vào mái tóc tạo nên sự liên kết giữa mọi đối tượng trong tranh. Ngoài sắc trắng chủ đạo ra, Tô Ngọc Vân còn sử dụng đến những màu sắc trang nhã như là xanh dương, xanh lá, vàng. Có thể thấy từ chất liệu, đường nét và màu sắc cho đến bố cục của tranh đều rất hoàn hảo. Không chỉ hấp dẫn về mặt hình thức biểu hiện, “Thiếu nữ bên hoa huệ” còn chứa đựng giá trị về tinh thần quý báu. Tác phẩm đã góp phần làm tôn vinh vẻ đẹp đài các và nền nã của người phụ nữ Việt Nam trong trang phục tà áo dài truyền thống để từ ấy, ngợi ca con người và đất nước Việt Nam.

Sức hấp dẫn của bức tranh là điều không thể chối cãi. Từ khi ra mắt, “Thiếu nữ bên hoa huệ” đã được rất nhiều khán giả trong và ngoài nước yêu thích. Có nhiều người muốn ngỏ lời mua tranh nhưng tác giả quyết định không bán. Về sau, số phận của bức tranh cũng trở nên hết sức lận đận. Ban đầu, bức tranh được treo ở nhà riêng của họa sĩ Tô Ngọc Vân. Do chiến tranh nên cả gia đình của tác giả phải đi tản cư. Đến khi hòa bình được lập lại, bức tranh đã biến thành vật sở hữu của một người khác. Sau đó, tác phẩm lại đổi chủ nhiều lần. Hiện nay, đa số những “Thiếu nữ bên hoa huệ” mà công chúng đã được chiêm ngưỡng đều chỉ là tranh chép. Đây quả thực là một điều đáng buồn cho một tác phẩm nghệ thuật có một không hai của nước nhà.

“Thiếu nữ bên hoa huệ” chính là sự kết hợp hết sức tinh tế giữa cốt cách Á Đông cùng với sự tân kỳ của mỹ thuật phương Tây. Sức sống của tác phẩm quả thực đã có thể vượt ra khỏi chiếc khung kính trang nghiêm để tới với lớp thế hệ những con người yêu hội họa.

 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Sau khi tham khảo soạn bài viết văn bản nghị luận về một tác phẩm văn học (Bài thơ) hoặc tác phẩm nghệ thuật (Bức tranh, pho tượng), mong rằng các em đã biết được cách viết và chọn cho mình cách viết phù hợp nhất. Ngoài chủ đề phía trên, còn rất nhiều chủ đề nghị luận khác nữa. Nếu muốn tham khảo thêm những chủ đề nghị luận khác trong chương trình ngữ văn 11 nói riêng hay những phần kiến thức trong môn Ngữ Văn hoặc những môn học khác nói chung, các em hãy nhanh chóng truy cập vào website vuihoc.vn sau đó đăng ký khoá học của VUIHOC để có thể học nhiều kiến thức hay nhất cùng các thầy cô nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 11
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}

VNESCHOOL là nền tảng cung cấp các khoá học online, chất lượng cao cho học sinh tiểu học và THCS. Chúng tôi cam kết mang tới cho học sinh trải nghiệm học đầy hào hứng và hiệu quả, giúp học sinh hiểu sâu, nắm chắc chương trình học trên lớp và đạt điểm cao trong các kì thi. Đồng thời chúng tôi cung cấp công cụ báo cáo cá nhân hoá nhằm hỗ trợ phụ huynh theo dõi sát sao và hiểu được năng lực của con trong quá trình học tập.


Địa chỉ: Tầng 1, Toà nhà Rivera Park , số 69 Vũ Trọng Phụng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Hotline: 0914890900