img
Thông báo
Sắp bắt đầu năm học mới, lớp hiện tại của bạn đang là lớp {{gradeId}}, bạn có muốn thay đổi lớp không?
img

Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học sách kết nối tri thức 11

Tác giả Hoàng Uyên 14:04 30/11/2023 70,102 Tag Lớp 11

Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học là một kỹ năng không thể thiếu trong quá trình học Ngữ Văn. Dưới đây là bài tham khảo Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học sách kết nối tri thức 11. Các em cùng tham khảo cách làm loại văn này cùng với VUIHOC nhé!

Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học sách kết nối tri thức 11
Mục lục bài viết
{{ section?.element?.title }}
{{ item?.title }}
Mục lục bài viết x
{{section?.element?.title}}
{{item?.title}}

1. Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học: Bài viết tham khảo 

1.1 Câu 1 trang 24 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức 

Bài thuyết minh Truyện Kiều – kiệt tác của đại thi hào dân tộc Nguyễn Du bao gồm những nội dung gì? Nội dung nào được tác giả chỉ ra là trọng tâm? 

Phương pháp giải:

Dựa vào văn bản để có thể trả lời câu hỏi này. 

Lời giải chi tiết:

Bài thuyết minh trên bao gồm 5 phần chính đó là:

- Phần 1: Giới thiệu về tác phẩm như hoàn cảnh sáng tác, đặc điểm thể loại

- Phần 2: Giới thiệu khái quát về tác giả

- Phần 3: Tóm tắt nội dung của tác phẩm

- Phần 4: Nghệ thuật trong Truyện Kiều

- Phần 5: Kết luận

→ Nội dung trọng tâm của tác phẩm chính là phần tóm tắt tác phẩm cùng với nghệ thuật của tác phẩm. 

1.2 Câu 2 trang 24 SGK Văn 11/2 Kết nối tri thức 

Chỉ ra sự kết hợp của một số những yếu tố như tự sự, miêu tả, biểu cảm hoặc nghị luận được sử dụng vào trong bài thuyết minh. 

Phương pháp giải:

Chú ý vào những yếu tố chính đã được sử dụng trong tác phẩm nói trên. 

Lời giải chi tiết:

- Tự sự được tác giả sử dụng đã kể về Nguyễn Du cùng với tác phẩm truyện Kiều và tóm tắt toàn bộ truyện Kiều. 

 - Miêu tả: yếu tố sử dụng trong phần tóm tắt nội dung của tác phẩm Truyện Kiều

 - Biểu cảm: yếu tố giúp thể hiện được những nhận xét về tác phẩm

 - Nghị luận: yếu tố giúp chỉ ra nghệ thuật sử dụng trong truyện Kiều

→ Việc kết hợp hết sức hài hòa giữa những yếu tố tự sự, miêu tả, biểu cảm và nghị luận đã giúp làm cho bài văn trở nên hấp dẫn và thu hút người đọc hơn, đồng thời nó cũng giúp người đọc dễ dàng hơn trong quá trình hiểu nội dung của tác phẩm. 

>> Mời bạn xem thêm: Soạn văn 11 chi tiết

2. Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học: Thực hành viết 

2.1 Thuyết minh về tác phẩm “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử 

Mẫu tham khảo 1:

Hàn Mặc Tử (1912-1940), tên thật của ông là Nguyễn Trọng Trí và là một trong những nhà thơ tiêu biểu nhất trong phong trào Thơ mới. Ông từng học tại trung học ở Huế sau đó ra làm công chức trong Sở Đạc điền Bình Định rồi vào Sài Gòn để làm báo. Năm 1936, ông phải quay trở về Quy Nhơn để chữa bệnh và 4 năm sau đó thì ông mất tại bệnh viện do căn bệnh phong.

Bài thơ “Mùa xuân chín” của Hàn Mặc Tử được rút ra từ tập thơ Đau thương sáng tác vào năm 1938, được coi là tiếng thơ thuần khiết, trong trẻo nhất trong cuộc đời làm thơ của Hàn Mặc Tử. Bài thơ là một bức tranh rất thôn dã, tất cả đều mang đậm vẻ xuân từ cảnh vật cho tới tấm lòng của con người.

Ngay từ cái tên của tác phẩm đã làm cho người đọc có một cảm giác gì đấy vui tươi chứa đựng sự huyền ảo về một mùa xuân thực sự tươi đẹp. Bức tranh thiên nhiên ở trong bài thơ hiện lên với vẻ đẹp của sắc xuân đang tràn ngập

“Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí. Bóng xuân sang”.

Đó chính là sắc vàng của ánh nắng sớm, là đôi mái hiên lấm tấm màu vàng của nước và ánh nắng, khung cảnh đó tạo nên một bức tranh thiên nhiên mùa xuân hết sức giản dị và lại rất đỗi gần gũi. Đặc biệt là hình ảnh “sột soạt” của tiếng gió thổi vào tà áo, đó được cho là một cách miêu tả âm thanh thực sự đẹp và hay. Qua con mắt chất chứa trữ tình của tác giả, chỉ là gió thổi tà áo, nhưng tác giả đã thổi hồn vào trong sự vật, sau đó nhân cách hóa nó, để tưởng chừng như gió đang trêu đùa tà áo, điều này tạo nên một cảm giác vô cùng vui tươi khó tả, sự hứng khởi khi một mùa xuân đang tới. Giàn thiên lý lấp ló phía sau bóng xuân tạo ra một khung cảnh mãn nhãn và khiến người đọc không khỏi trầm trồ mà tưởng tượng về một khung cảnh thiên nhiên tươi đẹp và mê đắm người đến thế.

Từ gần, tác giả đã phóng tầm mắt ra xa để ngắm nhìn thiên nhiên đất trời mới thấm hết được sự tươi đẹp của nó “sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”. Nó gợi cho ta cảm giác nhớ đến câu thơ trong tác phẩm Truyện Kiều của nhà thơ Nguyễn Du, cảnh vật dường như cũng thật đẹp như thế “Cỏ non xanh tận chân trời”. Sức sống đang tràn ngập khắp mọi nơi, con người cũng thế, cũng hòa mình vào cái sức sống mãnh liệt ấy của đất trời.

“Bao cô thôn nữ hát trên đồi

Ngày mai trong đám xuân xanh ấy

Có kẻ theo chồng bỏ cuộc chơi”

Mọi người đang hòa mình vào khung cảnh tươi đẹp của ngày xuân, cũng chính là đang đắm mình vào trong sự hạnh phúc của cuộc đời. Đó là hình ảnh về những cô thôn nữ còn đang “xuân xanh”, họ đều rất trẻ trung và xinh đẹp như mùa xuân, đang đắm mình vào trong hạnh phúc, trong đó có cả hạnh phúc của lứa đôi (theo chồng). Tiếng hát của họ vang vọng khắp không gian, mang theo cả những khát vọng của chính họ về cuộc đời.

“Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây”

Trong cái sắc xuân vô cùng tuyệt đẹp ấy của lứa tuổi đẹp nhất, họ như đang trò chuyện và tâm tình với người mình thương yêu, giãi bày nỗi lòng của bản thân. Đó cũng là mong muốn và niềm tiếc nuối của tác giả, phải chăng anh cũng đang chờ đợi người thương của mình, cũng muốn một lần được hiểu cảm giác đắm chìm vào mùa xuân ấy, được yêu thương và được hạnh phúc. Để rồi, tác giả buồn rầu mà bày tỏ ra nỗi nhớ nhung của mình trước khí xuân đầy vui tươi ấy:

“Khách xa, gặp lúc mùa xuân chín

Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy, năm nay còn gánh thóc

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang”.

Người khách đó, trong khung cảnh tuyệt đẹp này dường như bóng dáng của quê hương hiện ra trước mắt anh. Anh nhớ họ, nhớ những sự vật vốn nhỏ bé nhưng gần gũi và thân thương, mong muốn được một lần quay trở về, thăm người con gái thân thương ấy. Tất cả đều hiện ra trước mắt của tác giả nhưng giờ đây nó chỉ còn là những kỉ niệm về những ngày tháng bình yên và êm ấm khiến cho tác giả không thể nào quên được.

Dù sử dụng thể thơ dựa trên thể thơ thất ngôn Đường luật, nhưng bằng chính tài năng của mình, tác giả đã khiến cho ý thơ và lời thơ trở lên gần gũi, không khô cứng và khó hiểu mà ngược lại khiến cho người đọc cảm thấy hay và dễ hiểu hơn. Với nhịp thơ 4/3 được sử dụng hết sức nhịp nhàng, tác giả không chỉ làm nổi bật lên được khung cảnh mùa xuân mà còn làm nổi bật được nỗi lòng của chính bản thân mình cùng với những câu thơ mang đầy tính trừu tượng, hình ảnh sinh động và gần gũi, mang theo sức sống vô cùng mãnh liệt của mùa xuân. Tất cả tạo nên một bức tranh thiên nhiên rất đỗi độc đáo nhưng ẩn sâu bên trong là tình cảm của một người con xa quê với nỗi nhớ da diết và khôn nguôi.

Như vậy, có thể nói bài thơ như là một trong những tác phẩm hết sức tiêu biểu của hồn thơ Hàn Mặc Tử, thể hiện rõ được chất thi sĩ và tâm hồn bay bổng của một người luôn khao khát được sống để được tận hưởng một cuộc đời đẹp đẽ, vui tươi và tạo được ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.

Đăng ký ngay khóa học PAS THPT để được thầy cô lên lộ trình ôn thi tốt nghiệp ngay từ bây giờ nhé!

Mẫu tham khảo 2: 

Không biết mùa xuân đã có tự bao giờ và thơ xuân đã có tự bao giờ, chỉ biết khi người ta sinh ra đã có mùa xuân tươi đẹp đầy sức sống và thổi vào những hồn thơ, sống trong cuộc đời, nếu thiếu đi mùa xuân tức là thiếu đi những câu thơ xuân thì thực sự rất buồn. Hôm qua, hôm nay và cả ngày mai kia lại có những vần thơ xuân dành cho con người, cho cuộc sống này. Và hôm qua đã có Hàn Mặc Tử cùng với "Mùa xuân chín" khi cảm xúc bên trong con người lữ khách ấy đã đến độ tràn đầy.

Nói tới mùa xuân, có ai không hiểu đó là những phút rạo rực nhất của cuộc đời, của cuộc sống. Mùa xuân mỗi khoảnh khắc lại mang một vẻ khác nhau, lúc thì "mùa xuân nho nhỏ", lúc thì "mùa xuân xanh"... và đây là "Mùa xuân chín" nghe vừa mới lạ, lại vừa sôi nổi, vừa có một sức sống dồn nén đang thầm lặng nảy nở giống như cái mới cũng như cái lãng mạn và khao khát ở trong tâm hồn Hàn Mặc Tử.

Mỗi dòng thơ đều phảng phất hơi thở mùa xuân, đều thấm đượm cái đẹp trong tâm hồn của người thi sĩ. Mùa xuân bắt đầu từ những cái nắng mới lạ thường:

 "Trong làn nắng ửng khói mơ tan

Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng

Sột soạt gió trêu tà áo biếc

Trên giàn thiên lí bóng xuân sang".

   Đúng là nắng xuân, chẳng phải là tia nắng, hạt nắng, chẳng phải là giọt nắng mà chính là "làn nắng". Chữ "làn" như gợi tả một hơi thở vô cùng nhẹ nhàng, nắng như mỏng tan và mềm mại trải đều khắp bài thơ và trong không gian. Làn nắng lại "ửng" lên vào trong "khói mơ tan". Cảnh sắc thật nhẹ nhàng, đẹp dân dã mà lại huyền diệu. Sương khói quyện với ánh nắng; cái "ửng" của nắng được tôn lên thông qua làn khói mơ màng đang "tan" ra ấy. Ngòi bút thi sĩ vẫn hướng tới một nét thơ truyền thống và cổ điển, cảnh như có hồn, như có tình cảm chan chứa. Trân trọng đón lấy ánh nắng mới tinh khiết đó chính là hình ảnh "Đôi mái nhà tranh lấm tấm vàng!”. Sự hô ứng trong vần thơ giúp tạo ra một nguồn cảm xúc vô cùng ấm áp, cảnh vật cân xứng hài hòa và đầy thơ mộng. Vài nét chấm phá đơn sơ mà lại hết sức tinh tế gợi cảm và dung dị xen lẫn đáng yêu. Chỉ có "đôi mái nhà tranh" hiện ra trong "làn nắng ửng" nhưng vẫn gợi lên một sức sống đang có sự lay động, dân dã bình yên vô cùng thân thuộc với mọi người. Nắng như đang rắc lên "đôi mái nhà tranh" một chút sắc xuân cùng với hương xuân: "Sột soạt gió trêu tà áo biếc". Cái âm thanh của gió như đang "trêu" tà áo và cái gam màu "biếc" của lá đó chính là cái tình xuân. Một chữ "trêu" hết sức đáng yêu, thân thương quá, có gì đó như mang hương sắc của đồng quê từ những câu ca dao và hát ghẹo tình tứ thuở nào cứ ngân nga mãi ở trong lòng ta... Gió cũng chọn chiếc áo mà "trêu", phải chọn áo biếc mới thật thơ và thật đẹp. Mùa xuân là như vậy, "chín" là như thế!

Từ cụ thể, từ làn nắng và từ mái nhà tranh, từ gió rồi mới đi vào khái quát: "Trên giàn thiên lý. Bóng xuân sang". Câu thơ có một sự ngưng đọng và ngập ngừng cảm xúc rất nhẹ nhàng, bâng khuâng và vấn vương đón “bóng xuân sang", cảm xúc ngưng tụ như đang nín thở ấy đã ẩn mình vào dấu chấm ở giữa dòng thơ. Mạch thơ có chút ngập ngừng giống như mạch cảm xúc. Bên giàn thiên lý, mùa xuân đã tới. Mùa xuân nhẹ nhàng bước đi... như có thể cầm được, có thể ngắm nhìn được ngay trước mắt của mỗi chúng ta.

Sau dấu chấm chấm, sau cái ngưng tụ và đầy run rẩy như dây đàn căng lên trong tâm hồn nhà thơ thì mùa xuân lại ào đến:

"Sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời,

Bao cô thôn nữ hát trên đồi".

Cỏ như xanh mãi và tươi mãi trong không gian vô cùng mênh mông và bao la. Hình ảnh ẩn dụ "sóng cỏ" với ba chữ "gợn tới trời" gợi tả về làn cỏ xanh dập dờn trong làn gió mùa xuân nhè nhẹ thổi. Chẳng biết ngoài kia là sóng cỏ thật hay chính là lòng thi sĩ như cỏ xanh tươi mới gợn thành "sóng" được như thế? Mùa xuân chẳng bao giờ thiếu đi màu xanh của cỏ. "Cỏ xanh như khói bến xuân tươi" (trích trong Độ đầu xuân thảo lục như yên - Nguyễn Trãi). "Cỏ non xanh tận chân trời" (nhà thơ Nguyễn Du)... Gam màu "xanh tươi" đầy sức sống yên bình đó trong thơ của Hàn Mặc Tử cứ “gợn tới trời”, trải dài mãi như không bao giờ dứt, trải mãi và ngâm vào hồn thơ. Trong sắc xuân đó, tình cảm của con người cũng tới độ chín. Tiếng hát giữa mùa xuân thân quen làm sao, yêu thương quá. Một nét đẹp truyền thống của một dân tộc, đẹp như ca dao, dân ca và như lễ hội mùa xuân muôn thuở của cái xứ sở này được nhắc đến thông qua tiếng hát "vắt vẻo" và "thơ ngây" của những nàng xuân hoặc của bao cô thôn nữ. Câu thơ gợi lên cái "chín" bên trong tâm hồn của bao cô thôn nữ thông qua âm thanh “vắt vẻo", trong trẻo và tươi mát của câu hát giao duyên, của những trai gái ở nơi đồng quê, mộc mạc nhưng lại chất chứa tình tứ. Tâm hồn nhạy cảm và yêu cuộc sống thiết tha của thi sĩ Hàn Mặc Tử đã đi vào lời hát đó và để lại nhiều xao xuyến. Mùa xuân mới thực sự "chín" khi có sự xuất hiện của con người và có dư âm của tiếng hát:

 "Tiếng ca vắt vẻo lưng chừng núi,

Hổn hển như lời của nước mây

Thầm thì với ai ngồi dưới trúc

Nghe ra ý vị và thơ ngây".

Âm thanh đọng lại trong từng tiếng thơ, độ ngân rung và "vắt vẻo" hòa nhịp cùng với âm trầm "hổn hển" thể hiện một sự chuyển đổi về mặt cảm giác rất tinh tế và tài tình. Tâm hồn thi sĩ đã hòa nhập hoàn toàn vào với cái thế giới âm thanh mùa xuân ấy.

Tiếng ca như vút lên cao, như ngập ngừng và như lưu luyến giữa "lưng chừng núi". Dư âm tiếng hát dường như đang giăng mắc và rung lên “vắt vẻo" gợi lên nhiều xao xuyến bâng khuâng ở trong lòng nhà thơ. Tiếng hát "hổn hển" được so sánh với “lời của nước mây", chính là lời của thiên nhiên. Hai tiếng "hổn hển" thể hiện nhịp thở gấp gáp và vội vàng đầy hương xuân, tình xuân và cảm xúc lúc đó vừa thực vừa mơ tới lạ kì. Lời hát của những cô thôn nữ sao lại đáng yêu đến thế, như hút hồn người khác, như tràn ngập cả khắp không gian, góp phần tạo nên một "mùa xuân chín". Và còn có tiếng thì thầm "thầm thì với ai..." dưới bóng trúc, hẳn đó là lời tâm sự, là những lời thân thương rồi. "Vắt vẻo”, "hổn hển" và "thầm thì" là ba cung bậc của ba loại âm thanh thể hiện mùa xuân đang chín, thấm sâu vào tâm hồn người một cách nhẹ nhàng lắng dịu và chan chứa thương yêu. Sự phong phú về giai điệu cũng như phức điệu của khúc hát đồng quê, làm say đắm mọi người, để rồi cùng với nhà thơ bâng khuâng cảm nhận rằng: "Nghe ra ý vị và thơ ngây...".

Tiếng hát mùa xuân thực sự dân dã, tình tứ và đáng yêu biết mấy, sắc xuân, hương xuân và tình xuân "đang chín" dần bên trong lòng của thôn nữ, bỗng ngập ngừng tựa như có sự hụt hẫng và băn khoăn:

"Ngày mai trong đám xuân xanh ấy,

Có kẻ theo chồng, bỏ cuộc chơi".

 "Đám xuân xanh ấy" chính là các cô thôn nữ đang hát và đang "thầm thì với ai ngồi dưới trúc" kia sẽ chín cùng với mùa xuân và rồi cũng sẽ "theo chồng bỏ cuộc chơi... Thiên nhiên và lòng người như có chút quyến luyến mùa xuân dần trôi qua, tuổi xuân hồn nhiên cũng đang dần trôi qua. Hàn Mặc Tử như chợt cảm thấy buồn và thấy hẫng hụt, bâng khuâng, cảm thấy như bị mất mát đi một cái gì ở trong lòng khi mùa xuân đang chín dần... "Xuân đang tới nghĩa là xuân đương qua - Xuân còn non nghĩa là xuân sẽ già" (nhà văn Xuân Diệu).

Hàn Mặc Tử chính là người lữ khách đã đi qua mùa xuân và gặp cái ý vị của mùa xuân: "Khách xa gặp lúc mùa xuân chín...". Một nét bút hết sức truyền thống cổ điển "xuân hướng lão" xen lẫn yếu tố hiện đại và mới mẻ làm cho ý thơ càng thêm đậm đà hơn. Gặp lúc mùa xuân chín ấy mà thổn thức:

"Lòng trí bâng khuâng sực nhớ làng

Chị ấy năm nay còn gánh thóc 

Dọc bờ sông trắng nắng chang chang".

Hình ảnh của kí ức hiện ra một thoáng buồn đẹp và trải rộng khắp chốn mênh mông xa vắng. Nhà thơ nhớ tới con người như khao khát về một tình người và một tình quê. Mỗi một nỗi nhớ đều thể hiện sự bâng khuâng. Nhớ một công việc cụ thể: "gánh thóc" tại một không gian cụ thể đó là: "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang". Chỉ có "chị ấy" là người đọc không thể biết mà chỉ có tác giả mới có thể biết để mà "sực nhớ", để mà thầm hỏi. Mà man mác sợ "mùa xuân chín" ấy sẽ trôi qua thật nhanh. Hình như đó chính là nét thơ của Hàn Mặc Tử, là tâm hồn của Hàn Mặc Tử khao khát được giao cảm với đời mà luôn có một nỗi niềm hết sức cô đơn, trống vắng và hẫng hụt như thế.

"Mùa xuân chín" là một bài thơ về mùa xuân rất hay, là một bức tranh xuân mới lạ nhất, trong sáng, rạo rực, say mê và thơ mộng mà cũng thoáng buồn nhất. Hàn Mặc Tử với cảm hứng thiên nhiên chất chứa trữ tình, màu sắc cổ điển hài hòa cùng chất dân dã và trẻ trung bình dị đã làm hiện ra một bức tranh mùa xuân đầy tươi tắn thơ mộng. Mùa xuân thật đẹp, con người trẻ trung, hồn nhiên, xinh đẹp và đáng yêu. Yêu mùa xuân chín cũng chính là yêu đồng quê, yêu làn nắng ửng, yêu giàn thiên lý, yêu mái nhà tranh, yêu tiếng hát vắt vẻo của những nàng xuân ở trên "sóng cỏ xanh tươi gợn tới trời”.

 "Mùa xuân chín" khi thì dạt dào, khi thì lắng dịu trong tâm hồn của người thi sĩ. Có lúc vồn vã, có lúc lại mênh mang, như đang lắng tâm hồn mình vào bước đi của mùa xuân rồi lại bồi hồi, "sực nhớ... " và rồi "bâng khuâng". Cái nhớ bâng khuâng của người lữ khách đó sẽ mãi mãi là tình thương yêu, nỗi khát khao giao cảm với hương sắc và khúc nhạc của mùa xuân, với làng quê thân thuộc nơi miền Trung "Dọc bờ sông trắng nắng chang chang"...

Sổ tay Ngữ Văn tổng hợp các tips học văn hiệu quả giá chỉ bằng một cốc trà sữa. Nhanh tay đặt hàng thôi bạn ơi!!!

2.2 Thuyết minh về tác phẩm “Bình ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi 

Mẫu tham khảo 1: 

“Bình ngô đại cáo" của Nguyễn Trãi được xem như là một trong những tác phẩm kinh điển của nền văn học Việt Nam, là một trong số rất nhiều các tác phẩm được viết nên nhằm ca ngợi truyền thống yêu nước từ muôn đời của dân tộc ta. Tác phẩm được xem là bản tuyên ngôn độc lập thứ hai, được đánh giá là một áng "thiên cổ hùng văn".

Nguyễn Trãi quê ở Chi Ngãi (thuộc Chí Linh, Hải Dương), lấy hiệu là Ức Trai. Nguyễn Trãi sinh ra trong một gia đình nhà nho nghèo tuy nhiên rất giàu truyền thống yêu nước và cũng có một mối quan tâm hết sức đặc biệt đối với văn học và văn hóa nước nhà. Cha và ông ngoại của Nguyễn Trãi đều là những người có học thức và tài cao, để lại rất nhiều đóng góp quan trọng cho triều đình. Ông ngoại của ông là Tư đồ Trần Nguyên Đán còn cha của ông chính là Nguyễn Phi Khanh.

Cũng như rất nhiều tấm gương sáng ở thế hệ trước, Nguyễn Trãi cũng miệt mài kinh sử và vào năm 1400 ông thi đỗ Thái học sinh và được làm quan phục vụ cho triều đình nhà Hồ. Đến năm 1407, do nhà Hồ không còn đủ sức để chống trả trước sự xâm lược của quân giặc Minh, cha ông bị bắt sang Trung Quốc còn ông thì đã có một quyết định chính là tham gia vào nghĩa quân Lam Sơn để chiến đấu và bảo vệ tổ quốc.

Với khả năng lãnh đạo vô cùng tài ba và sự giúp sức từ những người cộng sự vô cùng nhiệt tình, Nguyễn Trãi và Lê Lợi cùng với nghĩa quân Lam Sơn đã giành được rất nhiều thắng lợi to lớn trước quân giặc Minh. Lê Lợi có một niềm tin rất vững chắc vào Nguyễn Trãi. Tuy nhiên sau đó triều đình lại xảy ra rất nhiều chuyện lục đục nội bộ, gian thần nhiễu nhương, Nguyễn Trãi quyết định trở về quê để tìm cuộc sống mới và lánh đục tìm trong.

Thế nhưng mong muốn của ông đã không thể toàn vẹn khi ông lại bị vướng vào một vụ án oan giết vua tại Lệ Chi Viên vào năm 1442, ông và cả gia đình của mình đã phải nhận một bản án khủng khiếp đó là tru di tam tộc. Nỗi oan của ông phải tới tận năm 1464 mới được vua Lê Thánh Tông giải oan và làm rõ. Nguyễn Trãi đã để lại cho nước nhà vô vàn tác phẩm có giá trị trên nhiều lĩnh vực. Những sáng tác của ông đều được viết bằng cả chữ Nôm lẫn chữ Hán. Phần lớn những tác phẩm của ông để phục vụ đắc lực cho tinh thần chiến đấu của đội quân nhà trước quân giặc ngoại xâm, thể hiện được những nỗi lo của ông về đất nước và con người.

Sự ra đời của tác phẩm gắn liền với hoàn cảnh của đất nước ta vừa trải qua rất nhiều cuộc chiến đấu và nhiều năm khổ cực để chống lại sự xâm lược của giặc Minh. Sau chiến thắng dữ dội ấy, Nguyễn Trãi đã thay mặt cho vua Lê Lợi viết ra tác phẩm “Bình ngô đại cáo” nhằm khẳng định về sự độc lập của đất nước. "Bình ngô đại cáo" được công bố vào năm 1428, đây được coi là một lời buộc tội vô cùng đanh thép đến quân giặc ngoại xâm đồng thời chính là một bản tuyên ngôn thành lập ra một triều đại mới của đất nước.

"Bình ngô đại cáo" được tác giả viết bằng một thể loại hết sức đặc biệt - thể cáo. Đây chính là thể văn có nguồn gốc từ đất nước Trung Quốc và thường được các vua chúa, những người đứng đầu sử dụng nhằm đưa ra một chính sách, chủ trương, quyết định hoặc để tuyên bố những sự kiện trọng đại cho mọi người cùng biết. Thể cáo sử dụng những lời lẽ vô cùng đanh thép, sắc bén và đặc biệt là có kết cấu hết sức mạch lạc, chặt chẽ.

Chỉ qua nhan đề của tác phẩm, Nguyễn Trãi đã giúp cho người đọc hình dung được về giá trị của nó. Từ "đại cáo" trong nhan đề giúp cho người đọc thấy được rằng đây không đơn giản chỉ là một bài cáo mà đó là bài cáo mang tính trọng đại của cả một quốc gia. Bên cạnh đó, dù cuộc chiến của dân tộc ta trước quân giặc Minh nhưng trong nhan đề lại xuất hiện đến từ "Ngô", đó chính là cách gọi của người Trung Quốc dựa theo thói quen của dân tộc ta nhưng bằng thái độ hết sức căm thù và khinh bỉ. Từ ngàn đời nay, phương Bắc luôn có những mưu đồ nhằm xâm chiếm nước ta, chúng đã khiến cho nhân dân ta phải trải qua biết bao nhiêu là khổ cực và vất vả. Chính vì vậy mà chưa có một giây phút nào dân ta nguôi ngoai trước sự độc ác và tàn bạo của chúng để rồi giờ đây mọi phẫn nộ và uất ức đó đều đổ dồn lên quân giặc Minh.

Để khẳng định chắc chắn về chủ quyền của quốc gia, nền độc lập của nước Đại Việt, Nguyễn Trãi đã nêu ra luận đề chính nghĩa mang ý nghĩa tất yếu:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân.

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo

Luận đề trên đã khẳng định về mối quan hệ chặt chẽ giữa dân, nước cùng sự nhân nghĩa. Nhân nghĩa là một khái niệm vô cùng quan trọng xuất hiện trong đạo Nho, nói về cách ứng xử giữa con người với con người dựa trên những sự tốt đẹp, đạo đức. Thế nhưng trong thời buổi quân giặc xâm lược, tác giả đã cụ thể hóa về biểu hiện của một con người sống nhân nghĩa chính là phải biết trừ bạo. Đó chính là một chân lý vô cùng thiết thực và phù hợp với tình hình của xã hội nước ta thời bấy giờ. Con người đất Việt dù có già trẻ, gái trai hay bất kể ai cũng đều phải chiến đấu cho sự độc lập của dân tộc. Điều ấy là một quan niệm đã được khẳng định rất chắc chắn:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác.

Qua các triều đại và sự xuất hiện của nhiều anh hùng hào kiệt từng thời:

Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập.

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau.

Song hào kiệt đời nào cũng có.

Khi thuyết minh về "Bình ngô đại cáo" bên cạnh việc tác phẩm đã làm nổi bật nên nền độc lập và chủ quyền dân tộc, tác phẩm còn là một bản cáo trạng đanh thép đối với những tội ác mà quân giặc đã gây ra cho dân tộc ta trong suốt 20 năm xâm lược. Từ những ngày đầu khi mới đặt chân đến nước ta, chúng đã tỏ rõ mình là một kẻ bịp bợm và độc ác.

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Quân cuồng Minh thừa cơ gây họa.

Chúng ra sức chà đạp và vùi dập nhân dân ta. Độc ác và tàn nhẫn hơn nữa là chúng còn sẵn sàng cướp đi tính mạng của nhiều người bằng những phương thức hết sức dã man:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ.

Thật sự những tội ác mà chúng gây nên không thể nào đếm được:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa sạch mùi.

Khi nói về tội ác của quân giặc, tác giả đã phải bất lực trước những từ ngữ để miêu tả điều đó. Trong bản cáo trạng đó, ta có thể thấy được cảm giác vô cùng sôi sục, phẫn nộ và uất hận của tác giả đã gửi gắm vào đó. Tác giả luôn hướng tới một cuộc sống ấm no và hạnh phúc cho người dân cùng những đau thương và xót xa trước sự hy sinh đau đớn của nhân dân.

Với tội ác dã man của quân giặc, quân dân ta đã đồng lòng để đứng lên đánh trả và giành lại chủ quyền đất nước. Những anh hùng hào kiệt, đặc biệt là vị tướng vô cùng tài ba Lê Lợi đều có xuất thân rất đỗi bình thường.

Ta đây:

Núi Lam Sơn dấy nghĩa,

Chốn hoang dã nương mình.

Khi chiến đấu với kẻ thù đã gặp biết bao gian khổ, khó khăn:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Có lúc phải đối diện với cái chết khi thiếu thốn lương thực:

Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần

Khi Khôi Huyện quân không một đội.

Nhưng với tinh thần quật cường cùng ý chí sắt đá, quân và dân ta đã đồng lòng chiến đấu và thắng lợi vẻ vang trước giặc ngoại xâm. Ta chiến thắng giành được sự độc lập, giặc thất bại và nhục nhã chính là cái kết tất nhiên cho những gì mà bọn chúng đã gây ra. Tuy nhiên điều đặc biệt ở đây chính là dù chúng có độc ác và tàn nhẫn, dân ta có bị chà đạp hay vùi dập đến đâu thì vẫn muốn lấy tấm lòng hiếu sinh để có thể mở đường sống cho chúng. Như vậy đến cuối cùng ta vẫn sử dụng sự nhân đạo để đối xử với lũ giặc ngoại xâm. Thế mới thấy rằng cách hành xử của dân ta với tội ác của giặc khiến cho tinh thần nhân nghĩa của nước ta vô cùng cao thượng, được đẩy lên một tầm cao mới.

Cuối cùng, nền độc lập dân tộc, giành lại được chủ quyền cho đất nước sau rất nhiều những mất mát và đau thương chính là kết quả tốt đẹp cho một dân tộc đã chiến đấu vô cùng anh hùng và sống nhân nghĩa. Thuyết minh về tác phẩm không thể nào quên rằng Nguyễn Trãi đã thay mặt cho vua để công bố tới đông đảo quần chúng nhân dân:

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Càn khôn bĩ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Muôn thuở nền thái bình vững chắc,

Ngàn thu vết nhục sạch làu.

Lời tuyên bố của tác giả cho thấy rằng một niềm tin mãnh liệt về một sự thái bình và lâu dài của nhân dân ta. Sau những tháng ngày phải chịu đựng cảnh chà đạp, áp bức và bóc lột thì giờ đây dân tộc ta cũng đã tự giải cứu được chính mình, tìm thấy được sự sống về cho đất nước. Hai câu kết của bài cáo cũng chính là sự khép lại cho thời kỳ chất chứa gian khổ đấu tranh và cánh cửa mở ra một thời đại mới phát triển và tươi sáng hơn:

Một cố nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm;

Bốn phương biển cả thanh bình, ban chiếu duy tân khắp chốn.

Tác phẩm "Bình ngô đại cáo" chính là kiệt tác cả về mặt nội dung lẫn nghệ thuật. Tác giả đã sử dụng lối viết có sự kết hợp khéo léo giữa chính luận với văn chương. Khi viết tác phẩm, tác giả còn biến đổi hết sức linh hoạt giọng văn, hình ảnh được sử dụng ở trong bài cáo vô cùng sinh động và hoành tráng.

Nguyễn Trãi còn sử dụng thành công biện pháp liệt kê hình tượng đa dạng, phong phú, đã  thể hiện được sự đối lập giữa quân ta và địch trong kháng chiến. Đoạn viết về khởi nghĩa chính là một trong những đoạn thơ hết sức đặc sắc về nghệ thuật.

Có thể thấy rằng, với những giá trị to lớn mà tác phẩm mang lại, "Bình ngô đại cáo" xứng đáng là tác phẩm kinh điển đại diện cho nền văn học Việt. Bài cáo không chỉ khẳng định chắc chắn về chủ quyền của quốc gia, độc lập của dân tộc mà còn góp phần vô cùng to lớn tác động tới ý chí của nhân dân trong công cuộc chiến đấu quật cường, bất khuất trước quân giặc ngoại xâm và tấm lòng nhân đạo cùng tinh thần nhân nghĩa của nhân dân ta.

Mẫu tham khảo 2:

Bình Ngô đại cáo là một áng “thiên cổ hùng văn” thể hiện được sự thiên tài của Nguyễn Trãi, đỉnh cao về cả tư tưởng lẫn nghệ thuật của nền văn hiến Đại Việt vào giai đoạn thế kỉ XV. Cùng với những tác phẩm Lam Sơn thực lục, Quân trung từ mệnh tập, Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập... Bình Ngô đại cáo đã làm cho ngôi sao Khuê trở nên chói sáng và lấp lánh ngàn thu.

Vào mùa xuân năm 1428, cuộc kháng chiến 10 năm chống lại quân giặc Minh xâm lược đã hoàn toàn thắng lợi. Nguyễn Trãi đã thay lời của Lê Lợi viết nên Bình Ngô đại cáo như một bản tổng kết về cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc “nên công oanh liệt ngàn năm”, tuyên bố nước Đại Việt chính thức bước vào một kỉ nguyên hoàn toàn mới độc lập và bền vững, “muôn thuở nền thái bình vững chắc".

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.

Đội quân khởi nghĩa vì thương dân và muốn trừng phạt kẻ có tội (điếu phạt), tiêu diệt tất cả những bọn giặc tàn bạo, đem về cuộc sống hạnh phúc, yên vui cho nhân dân (yên dân), đó chính là một việc làm nhân nghĩa. Nhân nghĩa chính là học thuyết của Nho giáo đề cao về đạo đức, tình nhân ái giữa con người với con người. Nguyễn Trãi đã tiếp thu được tư tưởng nhân nghĩa của Nho giáo theo định hướng lấy lợi ích của nhân dân cũng như của dân tộc làm gốc. Với Nguyễn Trãi, nhân nghĩa chính là lòng yêu nước, thương dân, phải đánh đuổi được lũ giặc mới có thể cứu nước, cứu dân; “triết lí nhân nghĩa của Nguyễn Trãi chẳng qua là lòng yêu nước thương dân: Cái nhân nghĩa lớn nhất là phấn đấu đến cùng, chống ngoại xâm, diệt tàn bạo, vì độc lập của đất nước, hạnh phúc của nhân dân” (nhận xét của Phạm Văn Đồng). Trong nhiều bức thư gửi tới tướng tá giặc Minh, Nguyễn Trãi đã đứng trên lập trường của toàn nhân dân và dân tộc, nêu cao nhân nghĩa, vạch trần những tội ác và bộ mặt giả nhân giả nghĩa mà bè lũ của chúng thể hiện: “Nước mắt nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mượn tiếng là “điếu dân phạt tội’’, kỳ thực làm việc bạo tàn, ăn cướp nước ta, bóc lột nhân dân tư, thuế nặng hình phiền, vơ vét của quý, dân mọn các làng không được sống yên. Nhân nghĩa mù lại thế ư?” (Lại thư trả lời Phương Chính).

Trên lập trường về nhân nghĩa, Nguyễn Trãi đã khẳng định nền văn hoá của Việt Nam, một nền văn hiến Đại Việt cùng với con người Việt Nam, một dân tộc đầy sự văn minh và anh hùng. Lần đầu tiên trong lịch sử tư tưởng, Nguyễn Trãi đã đại diện cho toàn bộ đất nước chiến thắng đã nêu cao giá trị vô cùng lớn lao của truyền thống dựng nước cũng như giữ nước của dân tộc ta:

Như nước Đại Việt ta từ trước,

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu,

Núi sông bờ cõi đã chia,

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần, bao đời gây nền độc lập,

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên,

Mỗi bên xưng để một phương.

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào thì cũng có một Nền văn hiến Đại Việt, nền “văn hoá Thăng Long” đã được hình thành, xây dựng và phát triển thông qua một quá trình lịch sử “đã lâu”, đã tồn tại “từ trước” đằng đẵng suốt mấy nghìn năm. Đại Việt không chỉ có vùng lãnh thổ chủ quyền “núi sông bờ cõi”, mà còn có cả thuần phong mỹ tục mang đậm bản sắc riêng, có quá trình lịch sử riêng và chế độ riêng “bao giờ gây nền độc lập”, đã từng “xưng đế một phương” và cũng là vùng đất có rất nhiều nhân tài và hào kiệt. Phải có mấy trăm năm độc lập dưới sự cầm quyền của các triều đại Đinh, Lý, Lê, Trần..., phải có những trang sử vàng rực chói lọi (Lưu Cung thất bại, Toa Đỏ, Triệu Tiết tiêu vong, Ô Mã Nhi bị giết tươi, bị bắt sống...) phải có những con người sở hữu “trí mưu tài thức” mới có thể làm nên “thi thư” của Đại Việt, của nền văn minh sông Hồng, thì Nguyễn Trãi mới có thể viết được những lời tuyên ngôn đĩnh đạc, tự tin và đầy hào hùng như vậy. Nếu như vào bốn trăm năm về trước, trong Nam quốc sơn hà, Lý Thường Kiệt chỉ mới xác định được hai yếu tố về lãnh thổ và chủ quyền trên ý thức của quốc gia và lập trường dân tộc, thì trong bài cáo Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi đã bổ sung thêm được bốn nhân tố nữa, đó là: văn hiến, lịch sử, phong tục và nhân tài. Điều đó cho thấy được rằng ý thức dân tộc của nhân dân ta đã phát triển lên một tầm cao mới vào thế kỉ XV, và đó cũng chính là tinh anh và tinh hoa trong tư tưởng Nguyễn Trãi.

Năm 1407, nhà Minh đã sai Trương Phụ, Mộc Thạnh mang mấy chục vạn quân kéo sang nhằm mục đích xâm lược nước ta. Lúc đầu thì chỉ lấy cớ “phù Trần diệt Hồ”, nhưng về sau, chúng đã chia cắt đất nước ta ra thành quận huyện và thi hành một chính sách cai trị hết sức độc ác:

Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn sẵn sàng bán nước cầu vinh. Nguyễn Trãi đã căm giận và lên án tội ác vô cùng dã man, tàn bạo của “quân cuồng Minh”. Chúng đã tàn sát nhân dân ta một cách quá man rợ:

Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ dưới hầm tai vạ. 

Sử sách vẫn còn ghi lại biết bao nhiêu tội ác chồng chất của quân giặc Minh trong suốt một thời gian dài đằng đẵng hơn hai mươi năm “dối trời lừa dân, đủ muôn nghìn kế”: rán mỡ người để lấy dầu, rút ruột người rồi treo lên cây, thậm chí là thui người trên giàn lửa hoặc phanh thây đàn bà có thai... Chúng bắt nhân dân ta phải lặn xuống biển để mò ngọc trai, lên rừng sâu để đãi cát, tìm vàng, bắt dân ta cống nạp ngà voi, hươu đen và trả biếc,... Sưu thuế chồng chất, phu phen lao dịch thì nặng nề. Chúng đã tàn phá đi môi sinh, môi trường và dồn nhân dân ta vào bước đường cùng, vào cái hố diệt vong:

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời,

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi

(...) Vét sản vật, bắt dò chim trá, chốn chốn lưới chăng,

Nhiễu nhân dân, bắt bầy hươu đen, nơi nơi cạm đặt

Tổn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng... 

Đằng sau những hành động hết sức dã man, mưu mô xảo quyệt chính là bộ mặt ghê tởm của lũ ác ôn cũng là bầy quỷ sứ phương Bắc đang hoành hành trên chính xương máu, nước mắt, thậm chí là trên tính mạng và tài sản nhân dân ta: “Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê chưa chán Tội ác của giặc Minh đối với nhân dân ta, không thể ghi hết tội, không thể rửa hết mùi dơ bẩn, trời đất không thể dung tha, người người đều căm giận”. Câu văn cảm thán trên của Nguyễn Trãi đã được cất lên như một lời nguyền, chất chứa bao nhiêu nỗi căm hờn, oán giận và xúc động lay tỉnh hồn người:

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nước Đông Hải không rửa hết mùi! 

Lấy trúc Nam Sơn, nước Đông Hải, cái vô hạn để đề cập về tội ác và sự dơ bẩn của bọn quân “cuồng Minh”, cái cùng cực và cái vô cùng, Nguyễn Trãi đã ghi sâu vào trong tâm trí con người, vào bia miệng tới nghìn năm vẫn chưa thể nào phai. Nguyễn Trãi đã từng “tiễn cha lên ải Bắc...”, cũng đã từng nếm mật nằm gai, ông chính là chứng nhân của lịch sử gọi vua nhà Minh hiếu chiến là “giảo đồng” (tức là trẻ ranh, nhãi ranh), lũ tướng tá giặc Minh là cái đồ “nhút nhát”. Đó cũng là tiếng nói vô cùng căm thù, khinh bỉ, là ý chí sắt đá muốn chống quân xâm lược và chống lũ bành trướng phương Bắc vừa tham tàn lại hiếu chiến:

Thằng nhãi ranh Tuyên Đức động binh không ngừng,

Đồ nhút nhát Thạnh, Thăng đem dầu chữa cháy!

Lãnh tụ cuộc khởi nghĩa Lam Sơn lúc bấy giờ là Lê Lợi. Trong bia Vĩnh Lăng, những bài thơ Hạ tiệp, Đề kiếm... đều có nhắc đến Lê Lợi, nhưng chỉ trong bài cáo Bình Ngô đại cáo, Lê Lợi mới được thể hiện một cách rõ ràng, tuyệt đẹp cùng với những tiêu biểu cho tinh hoa và khí phách của nước Đại Việt. Là một anh hùng của nhân dân vô cùng giàu lòng yêu nước, nuôi chí lớn để phục thù, phục quốc, đã từng nhiều năm mai danh ẩn tích để đón đợi lấy thời cơ:

Ta đây

Núi Lam Sơn dấy nghĩa.

Chốn hoang dã nương mình. 

Con người ấy đã gắn bó với toàn bộ nhân dân, đã cảm thấy đau trong nỗi đau lầm than của dân tộc, đã từng “nếm mật nằm gai”, đã cảm thấy “đau lòng nhức óc suốt mấy chục năm trời”, quyết tâm không đội trời chung với lũ giặc tàn ác:

Ngẫm thù lớn há đội trời chung,

Căm giặc nước thề không cùng sống. 

Con người ấy là đại diện cho trí tuệ Việt Nam, có một nhãn quan lịch sử có thể nhìn suốt theo thời gian và nắm chắc được vận mệnh của toàn dân tộc:

Quên ăn vì giận, sách lược thao suy xét đã tinh,

Ngẫm trước đến nay: lẽ hưng phế đắn do càng kỹ.

Những trằn trọc trong cơn mộng mị,

Chỉ băn khoăn một nỗi đồ hồi. 

Ngày đầu ra khởi nghĩa, quân còn không quá 2.000 người, có lúc phải trải qua cảnh “cơm ăn thì sớm tối không được hai bữa, áo mặc thì đông hè chỉ có một manh... khí giới thì thật tay không” (Quân trung từ mệnh tập). Thế và lực, giữa ta và giặc lúc ấy vô cùng chênh lệch: “Vừa lúc cờ khởi nghĩa dấy lên - Chính lúc quân thù đang mạnh”. Khó khăn và thử thách cú thể chồng chất nặng nề. Ngặt nghèo nhất chính là việc thiếu nhân tài hào kiệt:

Tuấn kiệt như sao buổi sớm,

Nhân tài như lá mùa thu.

Việc bôn tẩu thiếu kẻ đỡ đần,

Nơi duy ác thiếu người bàn bạc. 

Người anh hùng áo vải Lam Sơn, một mặt thì “Cỗ xe cầu hiển, thường chăm chắm còn dành phía tả”, mặt khác lại nêu cao lòng quyết tâm “gắng chí phục thù gian nan”, đồng cam cộng khổ với những tướng sĩ, đoàn kết toàn dân để đánh đuổi giặc:

Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tướng sĩ một lòng phụ tử, hoà nước sông chén rượu ngọt ngào. 

Sức mạnh của nghĩa quân được bắt nguồn từ sức mạnh vô tận của toàn thể nhân dân, của lực lượng đông đảo “manh lệ chi đồ tứ tập”, hay chính của đoàn nghĩa sĩ “phụ tử chi binh nhất tâm”. Điều đó cho thấy rằng cuộc khởi nghĩa Lam Sơn là một cuộc chiến tranh của nhân dân do người anh hùng áo vải đứng lên lãnh đạo. Sức mạnh của nhân dân và tài năng xuất chúng của lãnh tụ cũng chính là nguồn gốc của sự chiến thắng. Người anh hùng đó là một thiên tài về mặt quân sự “sách lược thao suy xét đã tinh... lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”. Người anh hùng đó đã phát huy được hết những tinh hoa trong nền quân sự Việt Nam, để chỉ đạo chiến tranh, đồng thời phát huy mọi tiềm năng của dân tộc, của tướng sĩ để có thể chiến đấu hết mình và giành chiến thắng:

Thế trận xuất kỳ, lấy yếu chống mạnh,

Dùng quân mai phục, lấy ít địch nhiều. 

Có thể nói, cảm xúc trữ tình trong bài cáo Bình Ngô đại cáo đã được thể hiện thông qua hình ảnh của Lê Lợi, người anh hùng đứng đầu nghĩa quân Lam Sơn. Lê Lợi vừa bình dị nhưng lại vừa vĩ đại, vị cứu tinh của đất nước đã xuất hiện và nếm trải biết bao cay đắng lầm than cùng với nhân dân, từ máu đổ xương tan mà có thể “nên công oanh liệt ngàn năm”. Nguyễn Trãi đã có sự nhập thân và hóa thân kì diệu khi thể hiện được tài trí, khí phách cùng với tầm vóc vĩ đại của Lê lợi, một mặt muốn nêu cao lòng tự hào dân tộc, tự hào về nền văn hiến của Việt Nam, mặt khác cũng thể hiện ra nhân cách, tài trí, chí hướng, và tâm huyết của mình. Với cảm hứng anh hùng cùng cảm xúc trữ tình, Nguyễn Trãi đã dành những câu văn và đoạn văn đẹp nhất khi khắc họa về hình ảnh của vị lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn.

Nguyễn Trãi đã dành phần lớn bài đại cáo để nói về diễn biến trong cuộc đấu tranh vũ trang và quá trình phản công khốc liệt của nghĩa quân Lam Sơn. Phần thứ tư này như những trang ký sự về chiến trường mang giọng điệu hào hùng và mạnh mẽ. Sức mạnh nhân nghĩa, đó là đại nghĩa, là chí nhân đã đè bẹp và nghiền nát lũ giặc Minh hung tàn và cường bạo. 

Lời văn sang sảng đã được cất lên:

Đem đại nghĩa để thắng hung tàn,

Lấy chí nhân để thay cường bạo. 

Có vượt qua được những thử thách nặng nề “Khi Linh Sơn lương hết mấy tuần - Khi Khôi Huyện quân không một đội”, nghĩa quân mới thực sự trưởng thành trong máu lửa. Quân ta càng đánh thì càng mạnh, càng đánh lại càng thắng lớn. Chiến công nối tiếp những chiến công, thế đánh như “trúc chẻ cho bay”, hay như “sấm vang chớp giật” giáng xuống đầu của lũ quân xâm lược. Cảnh tượng chiến trường hết sức rùng rợn, máu giặc chảy thành sông, xác giặc thì chất cao như núi:

Ninh Kiều máu chảy thành sông, tanh trôi vạn dặm,

Tụy Đông thây chất đầy nội, nhơ để ngàn năm. 

Trên đà chiến thắng “Sĩ khí đã hăng - Quân thanh càng mạnh’’, nghĩa quân lại tiếp tục tiến công trên quy mô rộng lớn hơn, giải phóng thêm những vùng đất chiến lược quan trọng: “Tây Kinh quân ta chiếm lại... Đông Đô đất cũ thu về”. Giặc đã thảm bại hoàn toàn “trí cùng lực kiệt”, lũ tướng Thiên triều, đứa thì “nghe hơi mà mất vía”, thằng thì lại “nín thở cầu thoát thân”, Trần Hiệp cũng phải “phải bêu đầu”, Lý Lượng thì “đành bỏ mạng”.

Chiến cục Chi Lăng - Xương Giang - Bình Than vào thời điểm mùa thu năm 1427 diễn ra hết sức ác liệt. Quân ta làm chủ chiến trường đã ra tay “điều binh thủ hiểm, chặt mũi tiên phong”, đã lên kế hoạch “sai tướng chen đường, tuyệt nguồn lương thực”, đã dồn 15 vạn viện binh giặc vào trong tử địa. Liễu Thăng bị cụt đầu, Lương Minh thì đại bại tử vong, thượng thư Lý Khánh cùng không có cách nào khác ngoài tự vẫn. Hành chục vạn giặc đã bị tiêu diệt hoặc bị bắt sống:

Lạng Giang, Lạng Sơn thây chất đầy đường,

Xương Giang, Bình Than, máu trôi đỏ nước. 

Đạo quân Vân Nam đã bị quân ta chặn đánh ở Lê Hoa “nghi ngờ khiếp vía mà vỡ mật”, quân Mộc Thạnh cũng đại bại ở Cần Trạm “xéo lên nhau chạy để thoát thân”. Sông suối bao la ở một vùng biên giới tây bắc đều ngập đầy máu giặc:

Suối Lãnh Cáu, máu chảy trôi chày, nước sông nghẹn ngào tiếng khóc

Thành Đan Xá, thây chất thành núi, cỏ nội đầm đìa máu đen. 

Đây chính là tướng sĩ của nghĩa quân Lam Sơn: “Sĩ tốt kén tay tì hổ - Bề tôi chọn kẻ vuốt nanh.” Và đây lại là hình ảnh của bọn tướng tá Thiên triều gặp tình hình “quân cô, lực kiệt, viện tuyệt, thế cùng”:

Đô đốc Thôi Tụ lê gối dâng tờ tạ tội,

Thượng thư Hoàng Phúc trói tay để tự xin hàng. 

Bình Ngô đại cáo được xem là một bản tổng kết chiến tranh suốt 10 năm. Tác giả đã tái hiện lại toàn bộ diễn biến của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu khi cờ nghĩa mới phất lên, trải qua không biết bao nhiêu chặng đường máu lửa, trưởng thành hơn trong những thử thách hy sinh, để giành thế chủ động chiến lược và tiến lên đánh bại được hoàn toàn lũ quân xâm lược. Nghệ thuật miêu tả những trận đánh sử dụng lối đặc tả, có khả năng biến hoá, lúc ghi lại được hình ảnh thất bại và thảm hại của lũ tướng tá Thiên triều, khi thì miêu tả khung cảnh chiến trường đầy rùng rợn. Kết cấu tương phản đối lập đã được tác giả vận dụng hết sức sáng tạo để làm nổi bật lên đặc điểm giữa quân ta và quân địch, giữa chính nghĩa và phi nghĩa, giữa đại thắng với đại bại... Cách sử dụng từ, sáng tạo hình ảnh kết hợp với các biện pháp đối xứng và thậm xưng cho thấy đây là một bút pháp nghệ thuật rất kỳ tài, tạo nên âm điệu của bản anh hùng ca. Bình ngô đại cáo chính là khúc ca thắng trận vô cùng oanh liệt, khiến cho dân ta không khỏi xúc động vì tự hào:

Gươm mài đá, đá núi cũng mòn,

Voi uống nước, nước sông phải cạn.

Đánh một trận, sạch không kinh ngạc,

Đánh hai trận, tan tác chim muông... 

Qua Bình Ngô đại cáo, ta có thể thấy được Lê Lợi là một nhà chiến lược vô cùng vĩ đại đã biết phát động chiến tranh đúng lúc khi thời cơ đã chín mùi, khi mà những tội ác quân cuồng Minh “Lẽ nào trời đất dung tha - Ai bảo thần dân chịu được? Trải qua bao năm tháng! Lẽ hưng phế đắn đo càng kỹ”, “Sách lược thao suy xét đã tinh”, Lê Lợi mới sẵn sàng đứng lên phất cờ khởi nghĩa. Lãnh tụ nghĩa quân Lam Sơn đã thể hiện được tài chỉ đạo chiến tranh đánh cho lũ giặc Minh một trận đại bại:

Cứu binh hai đạo tan tành, quay gót chẳng kịp,

Quân giặc các thành khốn đốn, cởi giáp ra hàng. 

Chính trong điều kiện chiến trường ấy, Lê Lợi đã chấm dứt chiến tranh, đã “mở đường hiếu sinh” và trao trả cho quân nhà Minh hàng chục vạn tù binh:

Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức. 

Khởi nghĩa nhằm “trừ bạo” và “yên dân”, kết thúc chiến tranh chính là để chấm dứt đổ máu, để bảo vệ cho “toàn quân” và “để nhân dân nghỉ sức”. Nguyễn Trãi với niềm tự hào vào chiến thắng đầy tự hào này đã ca ngợi về “đại nghĩa” và “chí nhân” của toàn bộ dân tộc ta. Đại Việt là một nước có văn hiến lâu đời, rất nhân đạo và luôn yêu chuộng hoà bình.

Kết thúc bài đại cáo là một khúc ca khải hoàn được vang lên hướng tới một ngày mai tươi sáng của nước Đại Việt - một nước văn hiến:

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới

Càn khôn bĩ mà lại thái

Nhật nguyệt hối mà lại minh

Muôn thuở nền thái bình vững chắc.

Như một quy luật vô cùng tất yếu: “bí mà lại thái” và “hối mà lại minh”, đất nước ta sau quãng thời gian 20 năm trời phải chịu quân cuồng Minh “dối trời, lừa dân..., gây binh kết oán” nay đã được bình yên, sạch bóng quân xâm lược, “ngàn năm vết nhục nhã sạch làu”. Tổ quốc Đại Việt bước vào một kỉ nguyên hoàn toàn mới: độc lập, hoà bình và thịnh vượng trong “vững bền”, hướng tới những điều “đổi mới”, và “vững chắc” suốt muôn đời. Giọng văn đĩnh đạc đầy hào hùng, thể hiện sự tự hào tin tưởng, thể hiện được khát vọng hòa bình, độc lập và niềm hạnh phúc của nhân dân ta. Sự nghiệp ‘‘Bình Ngô” mà đại thắng chính là nhờ vào sức mạnh của chính nghĩa, nhân nghĩa cùng với truyền thống yêu nước, anh hùng của dân tộc ta. Đó là nguồn gốc, cũng là nguyên nhân sâu xa làm nên được chiến thắng vẻ vang này. Sự nghiệp “bình Ngô” là trang sử vàng chói lọi, như là “Một cỗ nhung y chiến thắng, nên công oanh liệt ngàn năm...”

Trong chiến tranh, Nguyễn Trãi được nhận xét là một mưu sĩ “tâm công” cánh tay phải đắc lực cho Lê Lợi, là người “viết thư thảo hịch tài giỏi hơn hết một thời” (Lê Quý Đôn). Thư từ gửi cho tướng tá giặc Minh của ông cũng “có sức mạnh như mười vạn quân” (Phan Huy Chú). Nguyễn Trãi đã cùng với Lê Lợi làm nên sự nghiệp “Bình Ngô”, là người đã soạn thảo ra Bình Ngô đại cáo, một bản tuyên ngôn độc lập và hòa bình cho nước Đại Việt vào thế kỉ XV.

Bình Ngô đại cáo đã cho ta thấy được một bút lực cùng với tài học vô song của Ức Trai. Thể cáo là một thể văn cổ điển mang phong thái trang nghiêm, để thông báo cho toàn thể nhân dân một sự kiện hết sức quan trọng. Sự nghiệp “Bình Ngô” kéo dài đằng đẵng suốt 10 năm trời. Quân và nhân dân ta đã trải qua muôn vàn những gian lao thử thách, lập được bao chiến công lẫy lừng... từ những tháng năm lầm than tới những ngày toàn thắng “bốn phương biển cả thanh bình”, thế mà Nguyễn Trãi đã viết ra những diễn biến và sự việc một cách hàm súc: bài đại cáo chí chỉ dài vỏn vẹn 1343 chữ. Cảm hứng nhân nghĩa cùng cảm hứng anh hùng và khát vọng được độc lập, hoà bình đã tạo được tầm vóc văn chương, màu sắc sử thi cho bài đại cáo bình Ngô, một bản anh hùng ca của Đại Việt. Ngòi bút nghệ thuật của Nguyễn Trãi có khả năng biến hóa trong các phương pháp biểu đạt miêu tả và tự sự, trong trữ tình và bình luận, vừa sắc sảo lại vừa thấm thía và vừa đa thanh; lúc thì đĩnh đạc, hào hùng, trang nghiêm, khi thì thắm thiết căm giận, khi lại mạnh mẽ, hùng tráng... Đất nước và con người Đại Việt được nói tới trong bài đại cáo chính là một đất nước, một nhân dân văn hiến và anh hùng.

 

PAS VUIHOCGIẢI PHÁP ÔN LUYỆN CÁ NHÂN HÓA

Khóa học online ĐẦU TIÊN VÀ DUY NHẤT:  

⭐ Xây dựng lộ trình học từ mất gốc đến 27+  

⭐ Chọn thầy cô, lớp, môn học theo sở thích  

⭐ Tương tác trực tiếp hai chiều cùng thầy cô  

⭐ Học đi học lại đến khi nào hiểu bài thì thôi

⭐ Rèn tips tricks giúp tăng tốc thời gian làm đề

⭐ Tặng full bộ tài liệu độc quyền trong quá trình học tập

Đăng ký học thử miễn phí ngay!!

 

Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học có thể giúp các em hiểu kỹ càng về tác giả, tác phẩm, nghệ thuật và nội dung của tác phẩm ấy. Bởi vậy VUIHOC khuyên các em nên chuẩn bị trước cách Soạn bài Viết văn bản thuyết minh về một tác phẩm văn học sách kết nối tri thức 11 thông qua bài tham khảo trên để có thể đạt điểm cao khi gặp đề bài tương tự. Để học thêm những bài soạn khác thuộc chương trình ngữ văn 11 hoặc những môn học khác, các em hãy cùng nhanh tay truy cập website vuihoc.vn rồi đăng ký khoá học của VUIHOC để có thể tiếp thu được nhiều kiến thức nhất cùng các thầy cô nhé!

>> Mời bạn tham khảo thêm: 

Banner after post bài viết tag lớp 11
| đánh giá
Bình luận
  • {{comment.create_date | formatDate}}

VNESCHOOL là nền tảng cung cấp các khoá học online, chất lượng cao cho học sinh tiểu học và THCS. Chúng tôi cam kết mang tới cho học sinh trải nghiệm học đầy hào hứng và hiệu quả, giúp học sinh hiểu sâu, nắm chắc chương trình học trên lớp và đạt điểm cao trong các kì thi. Đồng thời chúng tôi cung cấp công cụ báo cáo cá nhân hoá nhằm hỗ trợ phụ huynh theo dõi sát sao và hiểu được năng lực của con trong quá trình học tập.


Địa chỉ: Tầng 1, Toà nhà Rivera Park , số 69 Vũ Trọng Phụng, Phường Thanh Xuân Trung, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội, Việt Nam.
Hotline: 0914890900